Thư gửi nhân dân Mỹ – Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thư gửi nhân dân Mỹ (23-12-1966)

Nhân dịp nǎm mới, tôi thân ái gửi đến nhân dân Mỹ lời chúc mừng hoà bình và hạnh phúc.

Nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ đáng lẽ cùng sống trong hoà bình và hữu nghị. Song Chính phủ Mỹ đã ngang nhiên phái hơn 40 vạn quân với hàng nghìn máy bay, hàng trǎm tàu chiến đến xâm lược Việt Nam. Chúng dùng bom napan, hơi độc, bom bi và những thứ vũ khí tối tân khác ngày đêm giết hại nhân dân chúng tôi, không chừa người già, đàn bà, trẻ em, chúng đốt phá làng mạc và thành thị, gây nên những tội ác vô cùng dã man. Những ngày gần đây máy bay Mỹ liên tiếp ném bom Hà Nội, Thủ đô yêu quý của chúng tôi.

Cũng vì cuộc chiến tranh tội ác do Chính phủ Mỹ gây rà, mà hàng chục vạn thanh niên Mỹ bị bắt đi lính, xa lìa quê hương, chết một cách vô ích ở chiến trường Việt Nam. Hàng chục vạn gia đình Mỹ cha mẹ mất con, vợ mất chồng.

Thế mà Chính phủ Mỹ luôn luôn rêu rao “thương lượng hoà bình” hòng lừa bịp nhân dân Mỹ và nhân dân thế giới. Sự thật là họ ngày càng mở rộng chiến tranh.

Chính phủ Mỹ lầm tưởng rằng với sức mạnh tàn bạo, họ có thể bắt nhân dân Việt Nam chúng tôi phải đầu hàng. Nhưng nhân dân Việt Nam quyết không bao giờ khuất phục. Chúng tôi yêu chuộng hoà bình, nhưng phải là hoà bình chân chính trong độc lập, tự do. Vì độc lập, tự do, nhân dân Việt Nam quyết không sợ gian khổ, hy sinh và quyết chiến đấu chống bọn xâm lược Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Ai là kẻ gây ra đau thương tang tóc cho nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ? Chính là bọn cầm quyền nước Mỹ. Nhân dân Mỹ đã hiểu sự thật ấy. Ngày càng nhiều người Mỹ dũng cảm đứng lên đấu tranh mạnh mẽ đòi Chính phủ Mỹ phải tôn trọng hiến pháp và danh dự nước Mỹ, phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và rút hết quân đội Mỹ về nước.

Tôi nhiệt liệt hoan nghênh cuộc đấu tranh chính nghĩa của các bạn và cảm ơn sự ủng hộ của các bạn đối với cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam.

Tôi chân thành chúc nhân dân Mỹ giành được nhiều thắng lợi to lớn trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, vì dân chủ và hạnh phúc.

Hà Nội, ngày 23 tháng 12 nǎm 1966

Hồ Chí Minh

——————

Đăng lại trên báo Nhân dân, số 4643, ngày 24-12-1966.

Câu chuyện về một người Mỹ ngã xuống vì Việt Nam

Ngày 4/4/1967, giữa lúc bom đạn và chất độc hoá học của Mỹ trút xuống Việt Nam, một người Mỹ tuyên bố trước công chúng ở New York: “Tôi nói với tư cách một người anh em của những người Việt Nam nghèo khổ” và kêu gọi: “Để chuộc lại những tội lỗi và sai lầm của chúng ta ở Việt Nam, chúng ta phải chủ động chấm dứt cuộc chiến tranh bi thảm này”.

Người Mỹ ấy là mục sư Martin Luther King, Jr. Ông nổi tiếng là một thủ lãnh kiệt xuất của phong trào đòi quyền công dân của hàng triệu người da đen ở Mỹ, song không phải ai cũng biết ông còn là người kiên quyết đấu tranh cho hoà bình của Việt Nam.

Đúng một năm sau, ngày 4/4/1968, ông đã ngã xuống trong cuộc đấu tranh ấy.

Đầu năm 1965, Mỹ bắt đầu leo thang chiến tranh ở Việt Nam: vừa ào ạt đổ quân viễn chinh vào miền Nam, vừa ném bom bừa bãi xuống miền Bắc. Martin Luther King, Jr. (MLK) đã sớm nhận ra tính chất phi nhân phi nghĩa của cuộc chiến tranh ấy, nên ngay từ tháng 7/1965, ông đã yêu cầu: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải được chấm dứt. Phải giải quyết nó bằng thương lượng” (1).

MLK phản đối chiến tranh trước hết vì nó ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống của những người Mỹ da đen. Để có tiền chi phí cho chiến tranh, chính phủ Mỹ cắt giảm nhiều biện pháp cải thiện đời sống cho người nghèo (đa số là người da màu) trong chương trình “Xã hội vĩ đại”. MLK cho biết: tổng thống Johnson tiêu tốn 322.000 đô-la để giết một du kích quân ở Việt Nam, nhưng chỉ chi 53 đô-la cho mỗi đầu người trong cuộc chiến tranh chống nghèo đói ở Mỹ. MLK kết luận: “Những lời hứa về “Xã hội vĩ đại” đã bị bắn gục trên chiến trường Việt Nam” (2).

Nạn kỳ thị màu da còn thể hiện trong chiến tranh. Người da đen chỉ có 13% dân số Mỹ, nhưng chiếm đến 28% số lính Mỹ bị đẩy ra chiến trường. Chỉ có 2% sĩ quan là người da đen. Theo MLK, đó là lý do khiến tỷ lệ lính da đen chết trận tại Việt Nam luôn cao một cách bất bình thường (3).

MLK không thừa nhận chiêu bài “bảo vệ tự do” mà chính phủ Mỹ thường dùng để động viên thanh niên da đen sang Việt Nam. Ông nói: “Thanh niên da đen bị gửi đi xa 8.000 dặm để bảo vệ tự do cho Đông Nam Á, cái tự do mà họ không tìm thấy ở tây nam Georgia hay ở đông Harlem”.

Còn một lý do khác, sâu xa hơn, cao thượng hơn, khiến ông phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam được ông trình bày trong bài diễn thuyết tại New York ngày 4/4/1967.

MLK điểm lại chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong hai thập niên sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai của bốn đời tổng thống: Truman, Eisenhower, Kennedy và johnson.

Trong khi chính phủ Mỹ luôn tự xưng là “lãnh tụ của thế giới tự do” thì MLK chỉ ra rằng Mỹ đã đứng về phía thực dân Pháp để chống lại khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Ông nói:

“Năm 1945, nhân dân Việt Nam tuyên bố nền độc lập của mình… Họ được Hồ Chí Minh lãnh đạo. Dù họ đã trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ vào bản Tuyên ngôn độc lập của họ, chúng ta vẫn từ chối công nhận họ. Thay vào đó, chúng ta quyết định ủng hộ Pháp trong việc tái chiếm thuộc địa cũ… Với quyết định bi thảm đó, chúng ta đã bác bỏ một chính phủ cách mạng đang đi tìm quyền tự quyết, một chính phủ được thành lập bởi chính những lực lượng bản xứ, trong đó bao gồm một số người cộng sản…

Trong chín năm sau đó, chúng ta khước từ quyền độc lập của nhân dân Việt Nam. Trong suốt chín năm, chúng ta ủng hộ mạnh mẽ Pháp trong nỗ lực đặt lại ách thực dân lên đất nước Việt Nam. Trước khi chiến tranh kết thúc, chúng ta trang trải 80% chi phí chiến tranh cho Pháp.

Ngay trước khi thua ở Điện Biên Phủ, Pháp đã bắt đầu tuyệt vọng về hành động liều lĩnh của họ, nhưng chúng ta thì không. Chúng ta khuyến khích họ bằng cách viện trợ một khối lượng khổng lồ tài chính và tiếp liệu quân sự để họ tiếp tục cuộc chiến ngay cả khi họ đã mất hết ý chí. Chẳng bao lâu, chúng ta hầu như trả toàn bộ chi phí cho ý đồ tái chiếm thuộc địa nầy”.

Pháp bị nhân dân Việt Nam đánh bại, phải rút quân về nước. Nhưng Mỹ lại nhảy vào miền Nam, “ngăn cản cuộc tổng tuyển cử mà chắc chắn sẽ đưa Hồ Chí Minh lên nắm quyền trong một nước Việt Nam thống nhất”. Để giữ miền Nam trong quỹ đạo của Mỹ, “chúng ta ủng hộ thủ tướng Diệm, một trong những nhà độc tài xấu xa nhất của thời hiện đại, người do chúng ta chọn lựa”. Người dân miền Nam phải sống chín năm dưới sự cai trị tàn bạo của Diệm. “Khi Diệm bị lật đổ, lẽ ra họ có thể sống hạnh phúc, nhưng rồi một loạt chế độ độc tài quân phiệt dường như chẳng có gì thay đổi”.

Trước phong trào nổi dậy của người dân miền Nam, “chúng ta gửi thêm quân lính sang để ủng hộ những chính phủ thối nát một cách kinh dị, lạc lõng, không được dân chúng ủng hộ… Người dân miền Nam chết dần chết mòn dưới bom đạn của chúng ta và xem chúng ta như kẻ thù đích thực của họ… Chúng ta buộc họ phải rời khỏi xóm làng của cha ông họ để bị dồn vào những trại tập trung… Chúng ta rải chất độc xuống các nguồn nước của họ, tàn phá cả triệu mẫu Anh mùa màng của họ… Chúng ta thử nghiệm những vũ khí mới nhất của chúng ta trên họ, giống như bọn Đức (quốc xã) thử nghiệm những loại thuốc mới và những cách tra tấn mới trong các trại tập trung của chúng ở châu Âu… Chúng ta tàn phá hai định chế thiết thân nhất của họ là gia đình và xóm làng…

Ở miền Bắc, bom của chúng ta đang liên tục ném xuống đất đai, còn mìn của chúng ta đang gây nguy hiểm cho các đường sông, đường biển… Cho đến nay, chúng ta có thể đã giết chết một triệu người Việt Nam, phần lớn là trẻ em”.

MLK nhận định: “Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã sai lầm ngay từ đầu cuộc phiêu lưu của chúng ta ở Việt Nam, rằng chúng ta đã gây tổn hại cho cuộc sống của nhân dân Việt Nam”.

Cảm thông sâu sắc nỗi đau thương mất mát của người dân Việt Nam, MLK lên tiếng đòi phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh tàn khốc mà chính phủ Mỹ đang tiến hành ở hai miền Nam, Bắc Việt Nam:

“Bằng cách này hay bằng cách khác, sự điên rồ này phải ngừng lại. Chúng ta phải chấm dứt ngay bây giờ… Chúng ta đã chủ động gây ra cuộc chiến tranh này, chúng ta phải chủ động chấm dứt nó… Để chuộc lại những tội lỗi và sai lầm của chúng ta ở Việt Nam, chúng ta phải chủ động chấm dứt cuộc chiến tranh bi thảm nầy”.

MLK đưa ra năm đề nghị cụ thể:

“1. Chấm dứt mọi cuộc ném bom xuống miền Bắc và miền Nam Việt Nam.

2. Đơn phương tuyên bố ngưng bắn với hi vọng hành động đó sẽ tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho thương thuyết.

3. Có ngay những bước đi ngay lập tức để tránh những cuộc chiến tranh khác ở Đông Nam Á bằng cách cắt bỏ việc xây dựng quân sự của chúng ta ở Thái Lan và sự can thiệp của chúng ta ở Lào.

4. Thừa nhận một cách thực tế rằng Mặt trận dân tộc giải phóng được sự ủng hộ to lớn ở miền Nam Việt Nam và vì vậy phải đóng một vai trò trong các cuộc thương thuyết và trong chính phủ tương lai ở Việt Nam.

5. Ấn định ngày đưa toàn bộ lính nước ngoài ra khỏi Việt Nam phù hợp với Hiệp định Genève 1954”.

Sau khi chiến tranh kết thúc, “chúng ta phải bồi thường cho những thiệt hại mà chúng ta đã gây ra”.

Vì “đường lối của Mỹ ở Việt Nam là đáng hổ thẹn và không chính nghĩa” nên MLK kêu gọi mọi người Mỹ: “Chúng ta phải nói… Chúng ta không thể im lặng… Chúng ta phải tiếp tục lên tiếng nếu nước chúng ta cứ khăng khăng đi theo con đường sai lầm ở Việt Nam. Chúng ta phải sẵn sàng gắn hành động với lời nói bằng cách tìm ra mọi cách phản đối… Chúng ta phải chuyển từ sự do dự trong quá khứ sang hành động. Chúng ta phải tìm ra những cách nói mới cho hoà bình ở Việt Nam cũng như cho công lý trong thế giới đang phát triển”.

Đối với thanh niên Mỹ, ông đề nghị “phải làm cho thanh niên Mỹ thấy rõ vai trò của nước Mỹ (trong việc gây ra chiến tranh) ở Việt Nam và yêu cầu họ chọn cách từ chối nhập ngũ vì lý do tôn giáo (conscientious objection)” (4).

Bài diễn văn của MLK soi sáng cho rất nhiều người Mỹ – cho đến lúc đó vẫn còn biết rất ít về quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam cũng như về căn nguyên của chiến tranh ở Việt Nam.

MLK trở thành một trong những lãnh tụ xuất sắc của phong trào phản đối chiến tranh ở Mỹ. Uy tín của ông ngày càng lớn. Chỉ cần ông đưa ra một lời kêu gọi, đã có hơn mười vạn người xuống đường ở New York ngày 15/4/1967.

Thật buồn cười khi chính phủ Mỹ – mà MLK gọi là “kẻ cung cấp bạo lực lớn nhất trên thế giới ngày nay” (the greatest purveyor of violence in the world today) – lại sợ hãi một mục sư chủ trương đấu tranh bằng phương pháp bất bạo động.

Họ tìm cách nói xấu ông. Tổng thống Johnson gọi MLK là “một nhà thuyết giáo đạo đức giả” (a hypocrite preacher), còn giám đốc cơ quan điều tra liên bang FBI Edgar Hoover cho MLK là “kẻ nói dối nổi tiếng nhất nước” (the most notorious liar in the country).

Họ chụp cho ông cái mũ cộng sản. Ngày 5/9/1967, Johnson nói với các cố vấn của ông: “Mối đe doạ chủ yếu đối với chúng ta đến từ kẻ chủ trương hoà bình”. Để có cớ đàn áp những người phản đối chiến tranh, Johnson ra lệnh cho cơ quan tình báo trung ương CIA tung tin: “Phong trào đòi hoà bình được khởi động từ Hà Nội”, những người phản chiến là “những người cộng sản hành động theo lệnh của các chính phủ nước ngoài” (5). Dựa theo luận điệu đó, báo Time phê bình bài diễn thuyết của MLK là “lời vu khống có tính chất mị dân, nghe như một bài phát thanh cho Đài Hà Nội”.

FBI cho người nghe lén điện thoại của ông, đặt máy ghi âm trong phòng khách sạn của ông. Nhiều thư hay cú điện thoại nặc danh hăm doạ giết ông hoặc khuyên ông tự tử. Nhà của ông ở Montgomery bị đặt bom…

Nhưng MLK không chút nao núng. Ông vẫn hoạt động hăng hái trong phong trào phản chiến.

Ngày 28/3/1968, ông tổ chức một cuộc biểu tình đòi hoà bình ở Memphis (bang Tennessee). Nhà cầm quyền phái 4.000 vệ quốc binh quốc gia đến giải tán, bắt đi 276 người.

Ba ngày sau, 31/3/1968, ông có mặt ở thủ đô Washington để diễn thuyết tại Nhà thờ quốc gia.

Vào cuối năm ấy sẽ có cuộc bầu cử tổng thống mới ở Mỹ. Chiến tranh Việt Nam đang là đề tài mang tính thời sự nóng bỏng trong suốt thời gian vận động tranh cử. Những lời phản đối chiến tranh của MLK có thể khiến đảng của Johnson mất đi nhiều phiếu. Vì vậy, ông nhận được nhiều loại hăm doạ… trong bài diễn thuyết ngày 3.4.1968, ông nói trước đám đông: “Cũng như bất kỳ ai, tôi cũng muốn sống thọ. Sống thọ là điều quan trọng, nhưng hiện nay tôi không quan tâm đến điều đó”.

Ngày hôm sau, 4/4/1968, vào lúc 6g01 chiều, khi ông đang đứng ở bao lơn lầu 2 của khách sạn Lorraine ở Memphis, ông bị bắn. Hơn một tiếng đồng hồ sau, lúc 7g05, ông trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Saint Joseph. Lúc đó, ông mới 39 tuổi!

Hay tin ông mất, những người yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới vô cùng thương tiếc. Ngày 9/4/1968, hơn 30 vạn người đau buồn tiễn đưa linh cữu của ông ra nghĩa trang.

Trong cuộc kháng chiến để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, nhiều bạn bè thuộc nhiều quốc tịch khác nhau (Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Thuỵ Điển…) đã đứng về phía nhân dân Việt Nam, chống lại đế quốc Mỹ xâm lược. Trong số những người ấy, có MLK.

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, chúng ta không bao giờ quên người bạn Mỹ đã ngã xuống cho hoà bình của Việt Nam 40 năm trước. Một con đường khang trang ở quận 7 Thành phố Hồ Chí Minh có vinh dự mang tên Martin Luther King, Jr.

Theo TS. Phan Văn Hoàng (Đại học Sư phạm TPHCM)

Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Quốc tế Đoàn kết với Nhân dân Việt Nam chống Mỹ và Bảo vệ hòa bình

BÀI NÓI TẠI HỘI NGHỊ QUỐC TẾ ĐOÀN KẾT VỚI NHÂN DÂN VIỆT NAM CHỐNG MỸ VÀ BẢO VỆ HOÀ BÌNH

Thưa các bạn và các đồng chí thân mến,

Hội nghị quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ hoà bình đã thành công rất tốt đẹp. Từ khắp năm châu đến Thủ đô Hà Nội chúng tôi, các bạn và các đồng chí đã mang đến cho nhân dân Việt Nam cả hai miền Nam Bắc, tình đoàn kết chiến đấu vô cùng quý báu của nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà bình toàn thế giới.

Tiếng nói mạnh mẽ của Hội nghị là tiếng nói của chính nghĩa, của hàng nghìn triệu con người đang quyết tâm đấu tranh cách mạng, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, để bảo vệ hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Nghị quyết của Hội nghị ủng hộ nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược là một sự cổ vũ to lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân miền Nam Việt Nam và đối với cuộc đấu tranh để hoà bình thống nhất nước nhà của nhân dân Việt Nam chúng tôi. Tôi xin thay mặt đồng bào cả nước chúng tôi trân trọng cảm ơn các bạn và các đồng chí.

Tôi tin chắc rằng: Với sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh, nhân dân tiến bộ Mỹ và các nước khác, đồng bào miền Nam chúng tôi sẽ chiến đấu mạnh mẽ hơn nữa chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Miền Nam Việt Nam nhất định sẽ được giải phóng. Cuộc đấu tranh thiêng liêng để thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà của nhân dân Việt Nam chúng tôi nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn.

Nhân đây, tôi xin ngỏ vài lời cùng nhân dân Mỹ: nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hoà bình, nhưng quyết không chịu làm nô lệ. Đế quốc Mỹ hiếu chiến và xâm lược là kẻ thù của chúng tôi, cũng là kẻ thù của các bạn và của toàn thể loài người. Chúng tôi mong rằng nhân dân tiến bộ Mỹ sẽ kiên quyết đấu tranh hơn nữa đòi Chính phủ Mỹ phải thi hành đúng Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Việt Nam, phải chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác ở miền Nam Việt Nam và mọi hành động khiêu khích và gây chiến đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đối với Lào và Campuchia.

Hội nghị quốc tế lần này đã ra một nghị quyết rất quan trọng ủng hộ phong trào đấu tranh vĩ đại của nhân dân tất cả các nước, nhất là ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ latinh, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, bảo vệ hoà bình thế giới. Hội nghị lịch sử này là kết tinh của mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, nhất là đế quốc Mỹ.

Tôi tin chắc rằng: sau Hội nghị quốc tế này, tình đoàn kết vĩ đại và làn sóng đấu tranh của nhân dân toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thực dân sẽ dâng cao hơn nữa, mạnh mẽ hơn nữa, giành được nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa.

Mỗi thắng lợi của nhân dân thế giới là một thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Và mỗi thắng lợi của nhân dân Việt Nam cũng là một thắng lợi của nhân dân thế giới.

Một lần nữa tôi xin cảm ơn các bạn và các đồng chí.

Chúng ta cùng hô to:

Mặt trận nhân dân toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc thực dân đứng đầu là Mỹ, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội muôn năm!

Nói ngày 30-11-1964.

Hồ Chí Minh: Toàn tập,
t.11, tr.343-344.

Toàn cảnh Chiến tranh Việt Nam – kỳ 4

Kỳ 4: Tổng kết Chiến tranh Việt Nam

————————————————————————

Mục lục:

Hậu quả chiến tranh

Chiến tranh tâm lý của Mỹ ở Việt Nam

1. Tố Cộng

2. “Thảm sát ở Huế”

Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận

Một số ngộ nhận thường thấy trong cuộc chiến

Tình nghĩa giữa Việt Nam với nhân dân Mỹ và thế giới

1. Ngọn lửa Morrison

2. Biểu tượng Martin Luther King

Nguyên nhân chiến thắng

1. Nguyên nhân sâu xa

Ý nghĩa chiến thắng

1. Giải phóng hoàn toàn miền Nam

2. Thống nhất đất nước

————————————————————————

Trước khi bùng nổ cuộc chiến lịch sử với Việt Nam, Hoa Kỳ đã trải qua khoảng 150 cuộc chiến với hàng ngàn chiến dịch, hàng vạn trận đánh từ năm 1776 đến 1953, trong suốt quãng thời gian dài đó, quân đội Hoa Kỳ chưa thua 1 cuộc chiến nào.

Tại Việt Nam năm 1954, Pháp chưa đi – Mỹ đã đến. Say men bách chiến bách thắng, nhà cầm quyền Mỹ đã chọn sai đối tượng ngay từ đầu khi họ chọn Việt Nam làm đối tượng tiến hành chiến tranh xâm lược. Họ vào một quốc gia có truyền thống chống ngoại xâm lâu đời, và tồn tại, độc lập, tự chủ sau bao nhiêu nghiệt ngã của thời cuộc. Sau 1000 năm Bắc thuộc và 100 năm Pháp thuộc, dân tộc Việt Nam đã phải gồng mình đứng lên chống quân xâm lược mới.

Trải qua 177 chiến dịch, bao gồm 130 chiến dịch trên bộ, 34 chiến dịch trên không, và 13 chiến dịch trên biển, Chiến tranh Việt Nam (cách gọi theo góc nhìn Mỹ), trở thành cuộc chiến đầu tiên và đang là duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ mà người Mỹ đã thua.

Thường trong các cuộc chiến tranh, phe tấn công xâm lược hầu như không bao giờ thừa nhận chiến bại. Và kết quả thắng bại trong các cuộc chiến cũng thường có những tranh luận, quan điểm khác nhau trong giới nghiên cứu quốc tế. Nhưng đối với cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam thì gần như tất cả nhà sử học, nhà quân sự, nhà lãnh đạo, chính trị gia Hoa Kỳ và quốc tế, bao gồm 5 đời tổng thống Mỹ, Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara, ngoại trưởng Henry Kissinger v.v. đều nhìn nhận là Mỹ đã thua cuộc chiến này.

Chỉ có 1 người luôn khăng khăng không dám chấp nhận sự thật rằng Mỹ đã chiến bại, đó là đại tướng William Westmoreland, tổng tư lệnh liên quân ở Việt Nam. Những thất bại của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đỉnh cao là chiến dịch Mậu Thân, đã làm cho Westmoreland bị cách chức, đây là một vết nhơ và nỗi nhục trong binh nghiệp của ông ta, và là một tỳ vết cho gia đình có truyền thống quân ngũ của ông ta. Ông ta bị thân bại danh liệt, danh dự cá nhân và gia đình tiêu tan, sự nghiệp quân sự và cả chính trị đã tiêu tan trong Chiến tranh Việt Nam.

Trong Chiến tranh Việt Nam, sau nhiều thất bại và chịu nhiều áp lực nóng hổi từ chính phủ, Westmoreland đã “không vui”, sau khi bị cách chức ngay sau đợt 1 của cuộc tổng tấn công chiến lược năm Mậu Thân 1968, ông ta càng cay đắng. Và tâm lý cay đắng không cam lòng đó đã đi theo và ám ảnh Westmoreland suốt quãng đời sau này. Khi trả lời phỏng vấn phim tài liệu nổi tiếng Hearts and Minds (Trái tim và khối óc) năm 1974, khi được hỏi về các tội ác, thương vong do người Mỹ gây ra ở Việt Nam, để giảm nhẹ tội ác, Westmoreland nói: “Người Á Đông không đặt cao giá trị sinh mạng họ như người phương Tây. Chúng ta đánh giá cao sinh mạng và giá trị con người. Họ không quan tâm đến sinh mạng và giá trị con người”.

Trong lần trả lời phỏng vấn tạp chí George năm 1998, khi được hỏi về Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người được đông đảo giới quân sự quốc tế đánh giá là một thiên tài quân sự, Westmoreland đã lúng túng trả lời một cách vụng về: “Ừ thì dĩ nhiên ông ta là một đối thủ xứng tầm. Để tôi nói thêm là Giáp đều luyện quân theo đơn vị thấp với chiến thuật du kích, nhưng ông ta cứ quyết phải xua quân tiến hành chiến tranh đơn vị cao, làm cho quân của ông ta bị tổn thất kinh khiếp. Với trách nhiệm của ông ta, đến năm 1969, tôi nghĩ, ông ta đã mất, cái gì, hình như khoảng nửa triệu lính? Ông ta đã công bố điều này? Sự không quan tâm đến sinh mạng con người đó có thể làm nên một đối thủ tạm được, chứ nó không làm nên một thiên tài quân sự. Một tư lệnh Mỹ mà mất nhiêu đấy lính khó có thể tồn tại trong quân ngũ hơn vài tuần.”

Theo danh sách đang cập nhật, bổ sung của Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam ở thủ đô Washington DC, Hoa Kỳ, và Tạp chí Lịch sử Quân sự Việt Nam, tài liệu của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương thì tổng thương vong của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam là 365.157 quân.

Trong số hơn 36 vạn quân Mỹ thương vong, có 58.168 lính chết trong lúc giao tranh (kill in action). Bản danh sách đầu tiên năm 1982 là gồm 57.939 người, và 1.875 người vẫn còn mất tích (tính đến năm 2004).

Trong số 58.168 người Mỹ tử trận, có 7.878 sĩ quan. Trong số sĩ quan chết trận, có 426 tư lệnh và sĩ quan chỉ huy. Trong số đó có 37 người cấp tướng. Sự tổn thất to lớn của Mỹ ở Việt Nam đã vượt Thế chiến I và chiến tranh Triều Tiên.

Có hơn 6 triệu người Mỹ sinh hoạt, hoạt động ở Việt Nam. Trong số những người Mỹ đó có 2.709.918 người mặc đồng phục (in uniform) hoặc/và phục vụ khu vực giao tranh. Trong số những người đó có khoảng 55-60 vạn binh lính phục vụ cho chính phủ Mỹ ở Việt Nam. Tổng số cựu quân nhân chiến tranh Việt Nam chiếm 9,7% cả thế hệ của họ….

Đối với quân đội Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam căng thẳng hơn cả Thế chiến II. Trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc Thế chiến II) tốn khoảng 40 ngày chiến đấu trong 4 năm. Nhưng trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tốn khoảng 240 ngày chiến đấu trong 1 năm nhờ chiến thuật Trực thăng vận.

Đi kèm theo sự tổn thất to lớn về sinh lực, nhân mạng là sự phá sản của 3 chiến lược chiến tranh (Đặc biệt, Cục bộ, Việt Nam hóa), 2 chiến lược tác chiến (Tìm và Diệt – Search and Destroy [S&D], Quét và Giữ – Clear and Hold), chiến lược Quét và Giữ (Clear and Hold) được tướng Creighton Abrams áp dụng tại Việt Nam, thay cho chiến lược Tìm và Diệt của Westmoreland, sau khi ông thay thế Westmoreland làm tổng tư lệnh liên quân sau thất bại chiến lược của Hoa Kỳ trong chiến dịch Mậu Thân 1968. Quét và Giữ về cơ bản là một chiến lược chống nổi dậy và chống chiến tranh du kích, bao gồm 3 yếu tố: Các chiến dịch quân sự – dân sự phối hợp, chiến dịch quân sự tác chiến, và chiến tranh thông tin.

Ngoài ra, 3 loại hình chiến tranh công nghệ cao là chiến tranh điện tử (electronical warfare), chiến tranh hóa học (chemical warfare), và chiến tranh khí tượng (weather warfare), cùng với 2 chiến thuật quân sự Trực thăng vận và Thiết xa vận đều bị phá sản hoàn toàn ở Việt Nam. Đặc biệt chiến thuật Trực thăng vận sau này không còn được Mỹ sử dụng nữa, mà chuyển hẳn sang chuyển quân bằng máy bay phản lực hoặc xe tăng. Chiến trường Việt Nam đã đưa đến cái chết hoàn toàn cho chiến thuật Trực thăng vận thịnh hành một thời, đặc biệt sau chiến dịch Đường 9 – Nam Lào.

Cuộc chiến tranh lịch sử này đã in sâu vào lòng công chúng Mỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác và đã đi vào văn hóa đại chúng như là một “hội chứng Việt Nam”. Tại Mỹ có hơn 30 ngàn sách, tiểu thuyết, truyện tranh viết về Chiến tranh Việt Nam; có 135 nhạc phẩm về Chiến tranh Việt Nam, gồm có 96 ca khúc phản chiến được lưu hành không chính thức, trong đó có 2 bài hát về cuộc thảm sát Đại học Tiểu bang Kent, khi cảnh sát Mỹ xả súng vào các sinh viên biểu tình ôn hòa phản đối chiến tranh (bài “Ohio” sáng tác năm 1970 và “Student Demonstration Time” năm 1971).

Tổng cộng có 64 phim điện ảnh Hollywood về Chiến tranh Việt Nam (bao gồm 6 phim trong cuộc chiến và 58 phim sau cuộc chiến). Có 8 phim tài liệu về Chiến tranh Việt Nam (gồm 4 phim trong cuộc chiến và 4 phim sau cuộc chiến). Đó là không tính các phim ảnh tâm lý chiến quá lộ liễu chiếm phần lớn nội dung như phim “Chúng tôi muốn sống”.

Có 54 trò chơi thương mại về Chiến tranh Việt Nam, trong đó có 47 trò chơi điện tử, bao gồm 37 trò chơi cho các máy Nintendo, Sega, Playstation và 10 trò chơi máy tính.

Hầu hết các sản phẩm văn hóa của người dân Mỹ đều nói lên rõ nét những yếu tố chính trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, như bản chất cuộc chiến, phong trào phản chiến, và tội ác chiến tranh.

Trong bộ truyện tranh Watchmen, một trong những thương hiệu truyện tranh lớn nhất ở Mỹ, có câu chuyện về việc trong khi Mỹ đang thua thì tổng thống Richard Nixon đã mời được tiến sĩ siêu nhân Manhattan can thiệp vào chiến tranh Việt Nam và giúp quân đội Mỹ thành công bình định miền Nam, sau đó xâm lược nốt miền Bắc. Kết quả Việt Nam trở thành tiểu bang thứ 51 của Mỹ.

Trong bộ phim danh tiếng Forrest Gump, nhân vật chính là một người thiểu năng trí tuệ. Tuy vậy, khi sang Việt Nam chiến đấu anh lại trở thành anh hùng khi cứu được trung đội trưởng thoát chết sau một trận đánh. Khi trở về, anh lại tham gia phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam cùng người yêu.

Trong bộ phim X-Men Origins: Wolverine, người sói Wolverine, một trong những nhân vật chính trong đội siêu anh hùng X-Men, đã từng chiến đấu và gây các tội ác chiến tranh, hãm hiếp trẻ em ở Việt Nam.

Đại tướng Creighton W. Abrams, kiến trúc sư của chiến lược Quét và Giữ ở chiến trường Việt Nam

Hậu quả chiến tranh

Theo các hồ sơ, tài liệu của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, sau đây là các loại bom mà không quân Hoa Kỳ sử dụng ở Việt Nam:

  • Bom phá MK-81, MK-82, MK-83, MK-84, M117A1, T55-E6 sử dụng để diệt mục tiêu bằng sóng xung kích và mảnh của vỏ bom.
  • Bom mảnh sử dụng các mảnh thân bom để tiêu diệt mục tiêu lộ thiên hoặc thiết giáp hạng nhẹ khi nổ.
  • Bom xuyên sử dụng để diệt các mục tiêu bọc thép, phá hủy những công trình kiên cố, đường hầm, địa đạo, công trình bê tông cốt thép bằng cách xuyên vào mục tiêu và nổ.
  • Bom cháy sử dụng để diệt mục tiêu, sát thương sinh lực, đốt cháy nhà cửa, cây cối.
  • Bom hóa học sử dụng để diệt sinh lực hoặc gây nhiễm độc địa hình và các phương tiện kỹ thuật bằng chất độc quân sự. Các loại bom hóa học Mỹ ném xuống Việt Nam thường chứa chất độc kích thích CS, chất độc tâm thần BZ, LSD, Mescalin pxyloxin….
  • Bom phát quang thường dùng để phát quang nhanh khu vực rừng rậm, mặt đất để dọn bãi cho trực thăng đổ bộ và bố trí trận địa pháo.
  • Bom chống tăng dùng hiệu ứng nổ lõm để diệt xe tăng, mục tiêu bọc thép khác và kho chứa….
  • Bom chùm thường sử dụng để sát thương diện rộng, có kết cấu bom mẹ chứa bom con.

Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội Bùi Hồng Lĩnh cho biết kết quả điều tra trên cả nước có khoảng 66.000 km2 còn tồn đọng vật liệu bom, mìn. Ước tính còn khoảng hơn 600.000 tấn bom mìn đang tồn tại dưới đất. Hiện mới chỉ có khoảng 20% lượng bom, mìn được tháo gỡ. Bình quân mỗi năm có khoảng 20.000 ha đất được rà phá. Với tiến độ này, khoảng 300 năm nữa mới có thể loại bỏ được hết các loại bom mìn chưa nổ.

Bom mìn còn sót lại sau cuộc chiến này đã gây tổn thất nặng nề về sinh mạng, tài sản, đời sống của người dân, ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Bom mìn đã cướp đi mạng sống của 10.529 người, làm 12.231 người bị thương, trong đó 25% các thương tích này là ở trẻ em lứa tuổi từ 14 tuổi trở xuống. Bom mìn do quân đội Hoa Kỳ mang đến Việt Nam tàn phá còn sót lại khoảng hàng trăm ngàn tấn, rải rác trên khắp cả nước, đặc biệt các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi….

Lính Mỹ mệt mỏi chán nản nhìn xác đồng đội. Trận chiến ban ngày kết thúc, họ chờ đợi trực thăng đến di tản đồng đội của họ khỏi các ngọn đồi có rừng nhiệt đới bao phủ tại tỉnh Long Khánh.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ đã huy động hàng triệu người Mỹ, trong đó có 4.649.000 người dưới 20 tuổi, khoảng 40% các nhà khoa học vật lý, 260 trường đại học, khoảng 22.000 xí nghiệp lớn với khoảng 5,5 triệu công nhân phục vụ cuộc chiến. Hơn 6 triệu người Mỹ sinh sống và sinh hoạt trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam, hậu quả là gần nửa triệu con lai Mỹ ra đời, nhiều người trong đó không biết rõ cha mình là ai, nhiều người phải sống trong các cô nhi viện cả trong và sau cuộc chiến.

Riêng năm 1968, mỗi ngày Mỹ chi phí cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lên đến khoảng 100 triệu USD, gấp 10 lần chi phí cho cuộc chiến chống nghèo đói ở Mỹ trong thời gian đó. Riêng những hậu quả về con người: Tính từ giữa năm 1961 đến năm 1974, đã có tổng số 57.259 người Mỹ đã tử trận ở Việt Nam. Nếu tính theo toàn bộ thời gian cuộc chiến, từ năm 1954 đến 1975 thì có tổng số 58.168 người Mỹ đã chết ở Việt Nam. Tháng 11 năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ đã khánh thành Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam để tưởng niệm những công dân Mỹ đã chết ở Việt Nam, bản danh sách ban đầu gồm 57.939 người, trong đó có 37 cấp tướng.

Tuy bị tổn thương nặng nề, Việt Nam vẫn giáng trả vào quân xâm lược những thiệt hại, thương vong tột cùng, gieo rắc vào đầu họ những hội chứng, ám ảnh không thể nào quên, trở thành những vết thương không bao giờ lành. Số lượng quân nhân Mỹ bị mắc bệnh tâm thần trong và sau thời gian chiến đấu ở Việt Nam là nhiều nhất trong tất cả các cuộc chiến mà quân đội nước này tham gia trong lịch sử.

Lần đầu tiên, vào năm 1988, chính phủ Mỹ buộc phải thừa nhận có khoảng 15% trong số lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam trở về bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Cựu binh Jim Doyle và David Curry chỉ là 2 trong số gần 60 vạn quân Mỹ bị chính phủ họ đẩy vào vũng lầy Việt Nam. Jim Doyle đã bị đẩy tới chiến trường Việt Nam khi mới 18 tuổi, mặc dù may mắn sống sót trở về, nhưng đến giờ người cựu binh này vẫn không thoát khỏi nỗi ám ảnh: “Chiến tranh là địa ngục. Nó tác động ghê gớm đến con người như một vết thương không thể hàn gắn.”“Cuối cùng, tôi nhận ra rằng, chiến tranh không chỉ lấy cắp thời thanh niên của tôi mà còn đeo đuổi, ám ảnh suốt cuộc đời tôi”. Các nhà xã hội học Mỹ cũng xác nhận: Kể từ sau năm 1975 đến nay, năm nào cũng có những cựu binh Mỹ đã từng chiến đấu ở Việt Nam bị tinh thần bất ổn, trầm cảm rồi tự sát.

Chiến tranh tâm lý của Mỹ ở Việt Nam

Hoa Kỳ luôn tận dụng mọi khía cạnh, mọi vấn đề để giành phần thắng, và trong các loại hình chiến tranh mà Mỹ tiến hành luôn luôn được hỗ trợ bằng chiến tranh tâm lý (psychological warfare – viết tắt: PSYWAR). Các tác chiến tâm lý bao gồm cả những hành động mua chuộc, chiêu dụ, lôi kéo những kẻ địch bản xứ đứng về phía Mỹ hoặc hiệu quả hơn đó là gia nhập hẳn vào hàng ngũ của Mỹ, như chiến dịch Moolah mà Mỹ đã sử dụng hạn chế ở Trung Quốc và sử dụng rộng rãi ở Triều Tiên, với đối tượng chiêu dụ chủ yếu là lực lượng không quân của đối phương. Chiến dịch Moolah khi đến Việt Nam đã được nâng cấp thành chương trình Chiêu Hồi (Open Arms), tấn công tâm lý vào mọi đối tượng của đối phương.

Thiếu tá Alan Byrne (trái) và trung tá Robert Laabs (phải), tham mưu trưởng Trung tâm Phát triển Chiến tranh tâm lý (PSYOP Development Center), Đoàn hành động Chiến tranh tâm lý 4 (4th PSYOP Group) ở Việt Nam năm 1968

Hình bìa sách giáo khoa hướng dẫn chiến tranh tâm lý do chính phủ Mỹ xuất bản năm 1968 trong Chiến tranh Việt Nam, có tên là MACV PSYOP Guide (Kim chỉ nam Chiến dịch Chiến tranh tâm lý – PSYOP). Lưu ý trong hình có hai người Việt trong nhà hàng đang đọc truyền đơn Chiêu Hồi.

Một trang trong kim chỉ nam chiến tranh tâm lý Chieu Hoi – The Winning Ticket (Chiêu Hồi – Tấm Vé Giành Chiến Thắng) do chính phủ Mỹ ấn hành năm 1970. Dịch: Một người bắt đầu nghĩ nếu được cho một cơ hội, anh ta có thể từ bỏ tranh đấu. Nhiều người quả thật từ bỏ tranh đấu, nếu họ có cơ hội.

Truyền đơn hù dọa của Mỹ. Dòng chữ ghi: Không có nơi nào để chạy…. không có nơi nào để trốn! Tăng và thiết giáp của lữ đoàn 1 Thiết Kỵ sẽ “tìm và diệt” các người! Đã quá muộn để chống cự. Việt Cộng hãy coi chừng, nơi nào cũng có chúng tôi! Bây giờ hãy quy thuận chương trình Chiêu Hồi; đó là con đường sống duy nhất của các người.

Hệ thống chiến tranh tâm lý của Hoa Kỳ được chia làm 3 phần: Chiến lược tâm lý, chiến dịch thông tin, và chiến thuật tâm lý. Mỗi sản phẩm thông điệp của chiến tranh tâm lý Hoa Kỳ đều được “chế tạo” thành và phổ biến rộng rãi ra một cách chuyên nghiệp.

Có 3 loại hình tuyên truyền mà Mỹ dùng để tạo nên các sản phẩm thông điệp, bao gồm tuyên truyền “Trắng” là một hình thức tuyên truyền công khai, chính thống, chính thức, tuyên truyền “Đen” và tuyên truyền “Xám” là hình thái tuyên truyền ngụy trang, che đậy, mờ ám, tiêu cực. Trắng, xám, đen không phải là sự phân loại về nội dung tuyên truyền, mà là sự phân loại về biện pháp, phương thức được sử dụng để thực hiện chiến dịch chuyển tải, phát tán những sản phẩm thông tin đó.

Chiến tranh tâm lý “Trắng” là loại hình tuyên truyền bằng những công bố, tuyên bố, hoặc động thái chính thức của chính phủ Mỹ, hoặc từ những thông tin được cung cấp bởi những nguồn có liên quan đến chính phủ Mỹ, cũng như những báo chí, truyền thông chính thống (mainstream media) tại Mỹ. Nó công khai cho thấy nó là thông tin từ phía Mỹ, từ chính phủ Mỹ.

Những cơ quan phụ trách tuyên truyền “Trắng” nhắm vào đối tượng độc giả, khán thính giả nước ngoài bao gồm: Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, Sở Thông tin Hoa Kỳ (United States Information Agency – USIA), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (United States Agency for International Development – USAID), Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, và nhiều sở, bộ khác của chính phủ Hoa Kỳ.

Chiến tranh tâm lý “Xám”, là loại hình tuyên truyền bằng những nguồn tin mờ mịt, mơ hồ, không rõ ràng. Nguồn gốc thật (chính phủ Mỹ) không được tiết lộ tới những đối tượng độc giả, khán thính giả. Những nguồn tin được ngụy tạo như là một nguồn tin phi chính thống không phải từ chính phủ Mỹ, hoặc “trung lập” giả tạo, hoặc ngụy tạo là những nguồn từ phía thứ ba không thù địch với đối tượng mà chính phủ Mỹ muốn bôi nhọ.

Chiến tranh tâm lý Xám cũng có thể là những nguồn tin tuyên truyền cho góc nhìn, quan điểm của Hoa Kỳ, phục vụ cho lợi ích của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, có hại cho đối tượng mà Hoa Kỳ muốn bôi nhọ, mà không trực tiếp từ Hoa Kỳ, có thể từ những quốc gia “vệ tinh” của Mỹ, những quốc gia lệ thuộc Mỹ, những đồng minh lâu năm của Mỹ v.v. mà có bàn tay của Mỹ của trong đó. Có nhiều trường hợp những tác động, tham gia của phía Mỹ cũng không được tiết lộ.

Chiến tranh tâm lý “Đen”, là loại hình tuyên truyền từ những nguồn (quốc gia, chính phủ, đảng phái, phe nhóm, tổ chức, cá nhân v.v.) có thái độ thù địch với cộng đồng quốc tế nói chung. Lợi dụng hoặc là ngụy tạo những nguồn đó. Lợi ích của chính phủ Mỹ được khéo giấu đi và chính phủ Mỹ nếu cần sẽ bác bỏ trách nhiệm. Loại hình tâm lý chiến này thích hợp cho những kế hoạch chiến lược cao.

Để đạt được hiệu quả cao nhất 2 loại hình chiến thuật chiến tranh tâm lý overt (công khai) và covert (giấu kín) đều phải được chia cách ra làm 2 tổ riêng rẽ, biệt lập với nhau. Nhân viên tham gia chiến thuật overt không thể tham gia chiến thuật covert, và ngược lại. Họ không biết được nhiệm vụ của nhau.

Tấm hình của lính Mỹ Paul Sgroi chụp chuyên viên tâm lý chiến John C. Stermer đang rải truyền đơn từ trực thăng UH-1H (Huey) vào năm 1969.

Truyền đơn được rải xuống từ máy bay U-10

Đội phát loa chiến tranh tâm lý Mỹ-ngụy trên chiến trường Việt Nam

Ngay từ đầu thập niên 1950, khi Mỹ chỉ mới đứng sau và viện trợ cho Pháp xâm lược Đông Dương, chứ họ chưa tiến hành chiến tranh với Việt Nam, thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu trước, đề phòng trước, và đã cẩn thận cảnh báo về chiến tranh tâm lý của Mỹ và kêu gọi quân dân Việt Nam phải đề cao cảnh giác trước tâm lý chiến của Hoa Kỳ.

Trong thời gian đó Bác Hồ đã viết nhiều bài báo, phân tích, bình luận về các thủ đoạn và hình thức tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền dối trá của Mỹ, trong đó có 2 bài viết ấn tượng đó là bài “Tuyên truyền” do Bác Hồ viết ngày 25-5-1954 trên báo Nhân dân số 188 và bài “Chiến tranh nhồi sọ” do Bác viết ngày 25-7-1952 trên báo Cứu quốc số 2128.

Trong bài “Tuyên truyền”, Bác viết: “Nói tóm lại, chúng dùng đủ mọi cách, mọi dịp để tuyên truyền, để hòng phá hoại tâm lý và tinh thần của nhân dân ta; cũng như chúng dùng bom đạn để phá hoại mùa màng và giao thông của ta.” Cuối bài Người nhấn mạnh ý chính: “Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đã đánh thắng địch về mặt quân sự!”

Trong bài “Chiến tranh nhồi sọ”, Người viết: “Ở các nước, có hơn 400 cơ quan làm việc tuyên truyền cho Mỹ… Mỹ còn lập nhà thương, trường học, hội từ thiện, vân vân, ở các nước, để làm cơ quan tuyên truyền và ổ mật thám. Hiện nay, tại những vùng tạm bị (Pháp) chiếm ở nước ta, Mỹ đang ra sức xâm lược vǎn hoá để hủ hoá và gieo rắc bệnh phục Mỹ, thân Mỹ, sợ Mỹ vào nhân dân, nhất là vào thanh niên ở những vùng ấy. Đó là một điều mà cán bộ giáo dục và tuyên truyền ta phải đặc biệt chú ý và phải ra sức chống lại.”

Hình bìa truyện tranh “Is this tomorrow, America under communism” (Phải chăng đây là ngày mai, Hoa Kỳ dưới chủ nghĩa cộng sản).

Rất nhiều sách, truyện tâm lý chiến đã được xuất bản ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7 năm 1967, 20 trang sách in màu, mật mã 2078, dưới tựa đề “Qua Cơn Ác Mộng” (The Chieu Hoi Story) được phát hành, truyện trình bày theo phong cách truyện tranh, hư cấu “nỗi niềm” của một “hồi chánh viên”, những “trải nghiệm ác mộng” dưới chế độ cộng sản ở vùng giải phóng và và lý do vì sao anh ta phải thoát ly cách mạng.

Tháng 10/1967, 20 trang sách với 12 hình chụp với tựa đề “Nhật ký của người Hồi Chánh” (Diary of a Returnee), mật mã 2169, được phát hành, truyện hư cấu theo hướng nội dung kể trên. Sách này còn liệt kê danh sách những chế độ đãi ngộ, tiền thưởng để chiêu dụ.

Năm 1955, Mỹ đài thọ cho chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập Nha Chiến tranh Tâm lý, người Mỹ chịu mọi chi phí. Năm 1965, cơ quan này đổi tên thành Cục Tâm lý chiến và sát nhập vào Tổng cục chiến tranh chính trị.

Hoạt động của Nha Chiến tranh Tâm lý trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam chủ yếu là tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền chống cộng, bôi nhọ những người chống Mỹ, vu khống các nhà lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bịa đặt hoặc xuyên tạc tình hình ngoài Bắc, “chụp nón cối” những nhóm đối lập với Mỹ-ngụy, nhất là trong giới tôn giáo, Phật giáo….

Các hoạt động này chủ yếu được thực hiện bằng những buổi truyền thanh (ví dụ: chương trình Dạ Lan, Nhạc Thời Chinh Chiến, Tiếng Ca Gửi Người Tiền Tuyến), truyền hình (ví dụ: chương trình Thép Súng), xuất bản (ví dụ: báo Chánh Đạo, báo Tiền Tuyến), chiếu phim (ví dụ: phim Chúng Tôi Muốn Sống do người Mỹ dàn dựng và sản xuất), văn nghệ (ví dụ: Biệt đoàn văn nghệ trung ương) …. Hai công cụ chính là Đài Phát thanh Quân đội và báo Chánh Đạo.

Áo tâm lý chiến. Trên áo là logo của chương trình Chiêu Hồi.

Những du kích phản bội nhận tiền thưởng sau khi dẫn binh lính Mỹ-ngụy tới kho vũ khí bí mật.

Hoạt động của nó trong những vùng giải phóng ở miền Nam và miền Bắc chủ yếu là kích động bất ổn, xúi giục, tung tin thất thiệt, tuyên truyền chống CNXH và CNCS, bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, vu khống các nhà lãnh đạo của VNDCCH, bịa đặt hoặc bóp méo tình hình trong Nam, kêu gọi lật đổ chế độ, ca ngợi Mỹ-ngụy, tuyên truyền không trung thực về tình hình xã hội miền Nam, ca ngợi giả dối về hình ảnh một “Hòn ngọc Viễn Đông” “giàu mạnh”, “phồn vinh”, “thịnh vượng”, tuyên truyền về các khái niệm “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền” theo định nghĩa và định hướng của Hoa Kỳ….

Các hoạt động này của nó chủ yếu bằng đài phát thanh “Tiếng nói Tự do”, “Mẹ Việt Nam”, “Gươm thiêng Ái quốc” (1965), “Tiếng nói Nam Bộ”, “Tiếng nói Khmer” và “Mặt trận Dân tộc Đông Dương”. Riêng 2 đài sau hoạt động chủ yếu nhằm gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia.

Hình tuyên truyền cho kế hoạch Ấp tân sinh (Ấp đời mới), sau khi kế hoạch Ấp chiến lược bị thất bại và phá sản.

Các cơ quan chiến tranh tâm lý của Mỹ-ngụy hoạt động theo phong cách phát xít chống cộng kiểu Đức Quốc Xã, như Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Hitler đã tuyên bố đại ý: Sự thật là những gì không đúng sự thật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lúc đầu dân không nghe, còn bán tín bán nghi, nhưng lặp đi lặp lại mãi thì dân sẽ tin đó là sự thật.

Tuy nhiên kết quả cuộc chiến Việt – Mỹ và kết quả hạn chế của các hành động chống Nhà nước Việt Nam, lặp đi lặp lại những lời lẽ vu khống của các thế lực phản động từ sau cuộc chiến đến nay đã cho thấy rằng lý thuyết, quan điểm, cách làm này của Đức Quốc Xã và Mỹ-ngụy là không có nhiều hiệu quả.

Bích chương tuyên truyền chống cộng của phát xít Đức

Các cơ quan liên quan đến ngành tâm lý chiến bao gồm:

Cục chính huấn, công tác chính của nó là tẩy não và nhồi sọ những thanh niên bị bắt lính. Cơ quan này đã sáng tác nhiều bài hát quân đội (ví dụ: “Hàng ngàn cánh tay đưa lên”, “Giặc từ miền Bắc vô đây”), bắt chước thể loại nhạc hùng ca của Việt Minh, để “lên dây cót” tâm lý, kích động tinh thần quân lính và đưa họ ra chiến trường chiến đấu cho chính phủ Mỹ, đánh thay và đỡ đạn cho quân đội viễn chinh Mỹ.

Cục xã hội và Cục quân tiếp vụ, các chuyên viên và các nha tuyên úy lo việc “ru ngủ” các tầng lớp xã hội, bao gồm cả tôn giáo. Cung cấp đô la hoặc hàng hóa như thuốc lá, bơ, sữa cho binh lính và gia đình ở giá thấp hơn giá thị trường. Mở các hoạt động ngụy tạo từ thiện, bố thí tiền bạc và vật chất để quảng cáo, tiếp thị, quảng bá hình ảnh Diệm-Thiệu và “người bạn lớn Hoa Kỳ”.

Trường Đại học Chiến tranh Chính trị: Đào tạo các kỹ năng tẩy não, nhồi sọ của chiến tranh tâm lý kiểu Mỹ. Tổ chức hội luận, nghiên cứu kỹ thuật tẩy não, nhồi sọ các thanh niên miền Nam bị bắt lính, và chương trình tẩy não, nhồi sọ trong các quân trường. Thành lập từ năm 1956 dưới tên Trường Quân báo Tâm lý chiến Cây Mai. Năm 1964 đổi tên thành Trường Chiến tranh Chính trị. Năm 1966 đổi tên thành Trường Đại học Chiến tranh Chính trị và dời lên Đà Lạt. Trường đào tạo được 6 khóa sĩ quan rồi bị giải tán sau ngày 30/4/1975.

Truyền đơn ngày 4/20/1968

Truyền đơn SP-782

Truyền đơn 2310

1. Tố Cộng

Trong chiến dịch Tố Cộng, ngoài những đàn áp bạo lực, bỏ tù, lưu đày, ám sát, chặt đầu để tiêu diệt người cộng sản, Mỹ-Diệm cũng thực hiện chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn để mị dân trong một số khu vực. Tuy nhiên, chính những đồng bào không nằm trong hàng ngũ kháng chiến đã góp công rất lớn vào cuộc đấu tranh chống chiến tranh tâm lý.

Tại Quảng Trị, ngụy quyền chuẩn bị một bản danh sách “tội ác cộng sản” rồi bắt ông Lê Chí Khiêm trong ban trị sự hội Phật học lên đọc. Trước khi đọc ông nói: “Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói đây la tộc ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta viết ra bảo tôi đọc thì tôi xin đọc để bà con nghe”.

Hình tượng hơn là chuyện ở Phan Rí (Bình Thuận). Khi một quận trưởng muốn mị dân, cho tổ chức một cuộc tranh luận giữa ông ta với người dân địa phương về những cái tốt và cái xấu giữa phía kháng chiến và phía Mỹ-Diệm, ông Bộ Gạch người dân tộc Chăm đã đứng lên nói một điều không nằm trong các giáo trình tâm lý chiến mà người quận trưởng đã chuẩn bị từ trước: “Các ông có chín cái tốt và một cái xấu, còn cộng sản có chín cái xấu và một cái tốt. Các ông cái gì cũng tốt nhưng ở với dân xấu quá. Cộng sản cái gì cũng xấu nhưng ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo cộng sản và cuối cùng cộng sản vẫn thắng.”

Trong một đêm Tố Cộng ở Chợ Lớn, một ông cụ đã nói: “Việt Cộng có nhiều cái xấu: Súng xấu, đạn xấu, quần áo xấu, chỉ có cái tốt là trong kháng chiến hồi đánh Tây đã sống chết để bảo vệ dân. Các ông thì có nhiều cái tốt: Súng tốt, xe cộ tốt, quần áo tốt, chỉ có cái xấu là giật của dân thôi”.

Người dân còn đặt nhiều câu hỏi làm cho những kẻ chỉ đạo các cuộc Tố Cộng ấp úng khó trả lời như: “Các ông nói cộng sản độc tài, nhưng chúng tôi không thấy cộng sản độc tài vì trong kháng chiến cộng sản kêu gọi đánh Tây giành độc lập mới có hòa bình, dân đói họ kêu gọi sản xuất để được no ấm.”, “Các ông nói cộng sản ‘cướp công kháng chiến’, nhưng lúc đánh Tây, các ông ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?”, “Nói quốc gia kháng chiến sao lại đi làm cho Tây?”.

Những câu hỏi đúng sự thật như vậy làm cho ban tổ chức thường xuyên bị bí không trả lời được. Nhiều lần họ phải giải tán lớp học. Một người chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng cấp trung ương ngụy quyền đã phải nói: “Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không trả lời được”.

Hình truyền đơn SP-1352A – mặt trước

Truyền đơn ATF-088-71 – mặt trước và sau

2. “Thảm sát ở Huế”

Ngoài chiến dịch chiến tranh tâm lý rộng lớn kể trên của Mỹ-Diệm, sau này Mỹ-Thiệu cũng thực hiện một chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn sau trận đánh 25 ngày ở Huế trong sự kiện xuân Mậu Thân 1968.

Sau trận chiến 25 ngày, Mỹ-ngụy trong một sự kiện ở Huế mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân và nhiều cư dân Huế gọi là sự kiện “Hậu Mậu Thân” đã lùng sục trả thù, giết hại. Người dân Huế nào có thiện cảm, có giúp đỡ Mặt Trận dù chỉ là vài lon gạo, vài đồng tiền dành dụm, hay cả nhà có 1 người nào đó theo cách mạng, đều bị đem ra trả thù, hành quyết. Họ đã tẩy trắng Huế bằng bom đạn trong nỗ lực chiếm lại thành phố. Và sau khi đã chiếm lại thì họ ngăn chặn phóng viên vào tác nghiệp, đồng thời mở cuộc tổng trả thù quy mô lớn.

Một nhân chứng ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa khi trả lời phỏng vấn trong phần 7 của loạt phim tài liệu 13 phần Vietnam: A Television History (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình), do đài PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne-2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành, đã cho biết: “Bắt đầu là chúng nó (Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống.”

Sau đó, Mỹ-ngụy gom lại xác những nạn nhân chiến tranh lại, trong đó phần lớn là những người dân bị chết bởi bom đạn Mỹ, những người dân bị chính họ tàn sát trả thù, những thi thể chiến binh Giải phóng và lính ngụy, cũng như những cộng sự của Mỹ, gom lại hết, rồi quay phim và chụp hình tuyên truyền giả dối đó là “nạn nhân thảm sát của Việt Cộng”, thậm chí sau đó một số kẻ viết thuê ở Sài Gòn còn nâng lên thành “hành quyết”, “chôn sống”, con số thì có những bài báo phóng đại lên đến “hàng triệu”.

Sau khi chiếm Huế, Mỹ-ngụy phong tỏa khu vực, ngăn cấm tất cả phóng viên nào muốn vào Huế kiểm chứng các “hố chôn tập thể”. Sau khi đã dàn dựng xong, họ mới cho các phóng viên báo chí ngụy quyền, hoặc chống cộng, hữu khuynh vào đưa tin, làm phóng sự về “tội ác Việt Cộng”, rồi sau đó mới hoàn toàn cho phép các phóng viên quốc tế, trung lập vào tác nghiệp.

Nhà văn Trần Thị Thu Vân (Nhã Ca) sau đó được chỉ đạo viết tiểu thuyết “Giải khăn sô cho Huế” theo phong cách tự truyện, một dạng “hồi ký ma” được hư cấu từ trí tưởng tượng phong phú của một nhà văn tâm lý chiến chuyên nghiệp lĩnh lương Mỹ để tuyên truyền bôi nhọ lực lượng kháng chiến.

Chiến dịch chiến tranh tâm lý này tuy đã thành công lừa gạt được một bộ nhận nhỏ, nhưng không lừa dối được nhiều người Việt Nam và người dân thế giới, bởi vì:

  • Chỉ nói suông, không bằng chứng, không có hình chụp, thước phim nào có những người lính Giải phóng trong đó. Trong tất cả các hình ảnh về tội ác chiến tranh ở Việt Nam thì những bức ảnh lính Mỹ-ngụy gây tội ác nào mà có lính Mỹ-ngụy trong đó thì được công nhận là tội ác Mỹ-ngụy. Còn những bức ảnh không có lính Mỹ-ngụy trong đó thì bị các cơ quan tâm lý chiến tuyên truyền thành “tội ác cộng sản”. Tất cả các bức ảnh được giới tâm lý chiến Sài Gòn và các thế lực chống cộng tuyên truyền xưa nay đều không có bất kỳ 1 hình nào có người lính Giải phóng trong đó, chỉ thấy nạn nhân cùng những lời bình chụp mũ, gán tội vô căn cứ, không bằng không chứng và giấu đi ai là kẻ thủ ác thật sự.
  • Không hợp thường lý và không có tiền lệ. Quân Giải phóng sống trong dân, sống nhờ vào dân, được dân nuôi giấu, che chở, thảm sát dân chính là tự sát, là tự tuyệt đường sống của quân mình.
  • Trái ngược với luật pháp Việt Nam, các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước, hay các tuyên thệ, quân luật, cách làm, các hành động lâu nay của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến lược của Việt Nam là chiến tranh nhân dân, với phương châm “quân với dân như cá với nước”. Mỹ-ngụy đã phải xây các trại tập trung như Ấp chiến lược để gom dân, dồn dân vào đó để tách dân ra khỏi quân, “tát nước bắt cá”. Các chỉ thị từ trên xuống quân đội thường xuyên nhấn mạnh “phải dựa vào dân”. Vì vậy những hành động gây tai tiếng, làm xấu hình ảnh trước nhân dân và dư luận quốc tế là không hợp lý. Thực tế trước và sau chiến dịch Mậu Thân thì sự ủng hộ của người dân đối với cách mạng vẫn vậy không lay chuyển.
  • Không phù hợp với các bằng chứng hay những lời kể từ các nhân chứng ở hiện trường, cũng như không được nhiều người trên thế giới tin tưởng, đề tài này không được các học giả xem là một đề tài nghiêm túc để đưa vào các tác phẩm, công trình nghiên cứu của họ. Nói chung thông tin này không phù hợp với các nguồn tin, sách báo, tài liệu quốc tế.
  • Xưa nay có nhiều phóng viên chiến trường như David Duncan, Robert Shaplen, nhà báo, nhà nhiếp ảnh người Pháp Marc Riboud, nhân viên Bộ quốc phòng Hoa Kỳ Townsend Hoopes và các nhà nghiên cứu độc lập như tiến sĩ Noam Chomsky, nhà kinh tế học Edward Herman, giáo sư tiến sĩ Gerath Porter, tiến sĩ Alje Vennema, sử gia Stanley Karnow, cựu phóng viên Bưu báo Washington (Washington Post) Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman v.v. đều đã góp phần vạch trần chiến dịch thông tin bôi nhọ này của Mỹ-ngụy.

Cựu chiến binh người Huế Hoàng Phủ Ngọc Tường, là nhân chứng trong mặt trận Huế năm Mậu Thân 1968, trả lời phỏng vấn về “cuộc thảm sát” này.

Truyền đơn dùng tiền bạc và lợi ích vật chất để chiêu dụ quân Giải phóng.

Truyền đơn 2990 – mặt sau. Chức vụ càng lớn, tiền thưởng càng nhiều.

Truyền đơn 2992

Truyền đơn 2993

Truyền đơn 7-377-68

Truyền đơn 7-617-68

Truyền đơn JUSPAO số 2500. Lưu ý các số tiền in trên truyền đơn là theo vật giá thời đó, nếu tính theo giá ngày nay thì đó là những số tiền lớn hơn.

Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận

Chiến tranh tâm lý của chính phủ Mỹ thường đi kèm với các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ để khủng bố tâm lý đối thủ, và đe dọa, gieo rắc sợ hãi cho nhân dân bản xứ, để họ không còn dám tiếp tế, giúp đỡ, nuôi giấu lực lượng kháng chiến bản địa.

Để tạo điều kiện dễ dàng, thuận tiện, tự do nhất cho sự hoạt động quân sự của binh sĩ Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã tự đặt ra luật Free-fire-zone (vùng bắn phá tự do) trên đất Việt Nam. Theo Dictionary of the Vietnam War (Tự điển thuật ngữ về Chiến tranh Việt Nam) do cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Hoa Kỳ James S. Olson biên soạn, Greenwood Press xuất bản năm 1988, và Crimes of War: What the Public Should Know (Tội ác chiến tranh: Những gì công chúng nên biết) của nhà nghiên cứu sử học Lewis M. Simmons, do nhóm Roy Gutman xuất bản năm 1999, thì Vùng bắn phá tự do là vùng được bắn vào mục tiêu (bao gồm khu vực, người và vật) mà không cần được cho phép trước.

Tài liệu hướng dẫn chiến trường (field manual) FM 6-20 định nghĩa như sau: “Một khu vực được xác định cụ thể mà tại đó, mọi hệ thống vũ khí đều có thể bắn mà không cần chỉ thị của các sở chỉ huy.

Sở chỉ huy MACV tại Việt Nam đã dựa vào giả định rằng tất cả các lực lượng bạn đã rời khỏi khu vực, và đã thiết lập một chính sách xác định các vùng bắn phá tự do là các khu vực mà:

  • Bất cứ ai xuất hiện quanh đó đều được coi là một binh sĩ đối phương.
  • Binh lính được phép bắn bất cứ ai di động sau giờ giới nghiêm mà không cần phải chắc chắn rằng người này có thái độ thù nghịch.

Chính sách này đã vi phạm hiệp định Genève 1954, hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế, cũng như những quy định liên quan đến tội ác chiến tranh và nhân quyền.

Đế quốc Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật chưa từng có trên một địa bàn hẹp; sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại và dã man nhất; đưa số quân Mỹ vào miền Nam lên đến gần 60 vạn quân. Chính quyền Mỹ đã thực hiện mọi chiến lược, chiến thuật về chính trị, quân sự, ngoại giao, dùng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất; bao vây phong tỏa, khủng bố toàn diện, tàn phá kinh tế, triệt hạ làng xóm, nông thôn và đô thị, tiêu diệt con người, hủy diệt môi trường thiên nhiên…. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc đã đưa ra các chiến lược gia, các chuyên gia chính trị – quân sự – khoa học, các tướng lĩnh bậc nhất của họ để đấu trí với Việt Nam.

Số bom đạn quân đội Mỹ dùng để tàn phá Việt Nam là 7.822.547 tấn, gần gấp 3 lần bom Mỹ dùng trong Thế chiến II, hơn gấp 10 lần chiến tranh Triều Tiên, gấp 47 lần số bom Mỹ ném xuống Nhật Bản.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược này, Mỹ đã sử dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự mới nhất. Các vũ khí và phương tiện chiến tranh tiên tiến nhất luôn được đem vào sử dụng trên chiến trường Việt Nam (trừ vũ khí hạt nhân), như máy bay B-52, máy bay F-111, các loại trinh sát cơ động cao hỏa lực mạnh, các loại phương tiện gây nhiễu và chống nhiễu, các loại bom chùm, bom bi, bom napan, chất độc hóa học….

Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa bao giờ và chưa có nơi nào trên trái đất đã diễn ra một cuộc tàn sát, hủy diệt kéo dài với quy mô rộng lớn trên một diện tích nhỏ hẹp như cuộc chiến tranh Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam. Với việc sử dụng không hạn chế bom đạn, chất độc hoá học và những vũ khí hủy diệt hàng loạt, Mỹ đã đánh vào đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa của dân tộc Việt Nam, tiêu diệt môi trường sống của sinh vật trên đất nước Việt Nam.

Những hung thủ sát nhân trong vụ thảm sát làng Sơn Mỹ chấn động thế giới thời bấy giờ, sau này trả lời phỏng vấn đài phát thanh BBC 4 thì họ (trung úy William Calley, tướng William Peers v.v.) cũng phải thú nhận họ chỉ là những kẻ thừa hành, họ nhận lệnh cấp trên để gây ra những tội ác chiến tranh đó, và tuyên bố xin lỗi các nạn nhân và nhân dân Việt Nam.

Theo bài báo My Lai: A Question of Orders (Mỹ Lai: Một câu hỏi về những quân lệnh) trên tuần báo Time, đại tá Oran Henderson đã ra lệnh phải “xóa sạch chúng”. Trong tác phẩm nghiên cứu My Lai: An American Tragedy (Mỹ Lai: Bi kịch của người Mỹ) của cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, giáo sư luật học tại Đại học Missouri-Kansas City, luật sư William George Eckhardt, xuất bản năm 2000, tóm tắt lại bản báo cáo của tướng William Peers, trong đó ghi rõ chi tiết Trung tá Frank A. Barker ra lệnh cho các chỉ huy của Tiểu đoàn 1 đốt trụi làng, giết sạch con người và gà, chó, đốt sạch các kho lương thực và đầu độc các giếng nước.

Một số binh sĩ của Đại đội Charlie sau này đã khai rằng Đại úy Ernest Medina ra lệnh cho họ giết tất cả những người dân “khả nghi”, bao gồm cả phụ nữ, trẻ em, người già v.v. họ đốt làng, phá hủy lương thực và đầu độc giếng nước.

Trả lời phỏng vấn BBC News Anh ngữ tháng 3 năm 2008, sĩ quan Celina Dunlop tự thú: “Đa phần lính trong đơn vị tôi không coi người Việt Nam là loài người.”. Trong Thư viện Tội ác chiến tranh ở Mỹ, có tài liệu “Into the Dark: The My Lai Massacre” (Vùi sâu vào trong bóng tối: Cuộc thảm sát Mỹ Lai), trong đó có nói về một phi công trực thăng bay trên khu vực làng Mỹ Lai (Sơn Mỹ) đã thốt: “Quang cảnh phía dưới trông như một biển máu! Cái quái gì đang xảy ra thế?”.

Lúc đầu, Mỹ che giấu thông tin và bịa đặt ra là mình chỉ giết cộng sản, giết lính, giết Việt Cộng, bịa ra những “cuộc đọ súng ác liệt”, “trận đánh đẫm máu”, nhưng sau đó một số người lính tham dự đã không kín miệng, sự việc rò rỉ, báo chí và phóng viên chiến trường khắp thế giới vào cuộc, dư luận quốc tế gây sức ép quyết liệt, nên quân đội Mỹ đành phải đưa 1 kẻ thủ ác “ra tòa”. Nhưng chỉ xử qua loa chiếu lệ.

Chỉ huy Lữ đoàn Henderson là Trung úy William Calley, ông ta là người duy nhất phải ra tòa án binh từ trước tới nay sau hàng trăm vụ thảm sát lớn nhỏ do quân đội Mỹ và các đồng minh, chư hầu gây ra ở Việt Nam, như các cuộc thảm sát Sơn Mỹ, Thạnh Phong, Bình Hòa, Định Tường, Kiến Hòa, Gò Công, Hà My, Thái Bình, Phong Nhi và Phong Nhất v.v..

Ban đầu Calley “ra tòa” không phải về tội giết dân thường, hay tội ra lệnh tàn sát thường dân, mà về tội “che giấu thông tin”, sau đó được tuyên bố trắng án. 10 tháng sau, do dư luận Việt Nam, Hoa Kỳ và quốc tế làm lớn, áp lực chính trị căng thẳng, Mỹ đành phải lôi Trung úy Calley ra tòa và bị tuyên án “chung thân” nhưng chỉ 2 ngày sau đó Tổng thống Nixon đã ra lệnh thả Calley. Cuối cùng Calley chỉ phải chịu án 4 tháng ngồi tù quân sự tại bang Kansas. Theo tài liệu “War Crimes: Brutality, Genocide, Terror, and the Struggle for Justice” (“Tội ác chiến tranh: Khủng khiếp, Diệt chủng, Khủng bố, và sự tranh đấu vì công lý”) của tác giả Neier, NXB Random House, trong thời gian này hắn vẫn được bạn gái thăm nuôi và quan hệ tình dục không hạn chế trong nhà giam, được cung cấp thực phẩm đặc sản, nước giải khát, và bao cao su. Dư luận Mỹ và thế giới thì chỉ xem hắn là con Tốt thí, là con dê tế thần, là kẻ giơ đầu chịu báng.

Theo ghi âm radio của nhà báo quân đội Mỹ Robert Hodierne, một cựu binh Chiến tranh Việt Nam, người dẫn chương trình đài phát thanh BBC 4 Anh ngữ khi phỏng vấn một loạt những cựu binh Mỹ từng tham gia vụ tàn sát, hãm hiếp, tắm máu ở Sơn Mỹ đã kết luận: “Những vụ thảm sát này không chỉ đơn thuần là những hành vi của nhóm lính bất trị gây ra. Nó là những cuộc bắn giết được lên kế hoạch cẩn thận từ trước, với mục tiêu giết càng nhiều càng tốt, hủy diệt càng nhiều càng tốt”.

Trong các tài liệu, hồ sơ của quân đội Mỹ, Lữ đoàn 173, có báo cáo chi tiết về 142 vụ bắt giữ và ngược đãi người dân, trong đó có 127 trường hợp liên quan đến Lữ đoàn này. Tuy nhiên các giới chức lãnh đạo của Hoa Kỳ đã cố gắng bưng bít thông tin. Tờ Los Angeles Times đã đăng bài viết tố cáo các chỉ huy quân đội Mỹ đã che giấu tội ác của cấp dưới trong chiến tranh ở Việt Nam và phần lớn các quân nhân phạm tội đã không bị trừng phạt, hoặc chỉ bị phạt rất nhẹ, trong khi người tố cáo lại bị trả thù, ngược đãi, trù dập.

Một số thông tin khác liên quan đến tội ác quân đội Hoa Kỳ khi giải mật hồ sơ những vụ thảm sát tại Việt Nam, theo báo Los Angeles Times, Baltimore Sun ở Mỹ, Cơ quan Lưu trữ Hồ sơ và Tài liệu Quốc gia (NARA) của Hoa Kỳ đã có hơn 9.000 trang tư liệu, hồ sơ cung cấp chi tiết về 320 cuộc thảm sát lớn nhỏ đã được cơ quan điều tra của quân đội Mỹ xác minh và có những bằng chứng cụ thể. Nhưng trong 320 cuộc thảm sát này lại không có Thảm sát làng Sơn Mỹ, cuộc thảm sát ghê rợn và chấn động quốc tế, cho thấy còn rất nhiều tội ác thảm sát, trong đó có những vụ thảm sát tương đương mức độ như thảm sát Sơn Mỹ của quân đội Mỹ tại VN mà chưa được ghi nhận đầy đủ, những hồ sơ còn nhiều thiếu sót, còn nhiều cuộc thảm sát không được đưa vào hồ sơ, hoặc bị che giấu bưng bít thành công.

Các vụ việc còn lưu giữ trong hồ sơ NARA có thể kể đến: Bảy vụ thảm sát lớn từ 1967 đến 1971, mỗi vụ có ít nhất 137 người dân bị giết, 78 vụ thảm sát khác vào những người dân thường, mỗi vụ có ít nhất 57 người bị giết và 56 người bị gây thương tật, 15 vụ hãm hiếp hàng loạt, hiếp trước giết sau, 141 vụ tra tấn vô nhân đạo vào thường dân hoặc tù binh chiến tranh.

Ngoài 320 trận thảm sát được xác minh, hồ sơ còn có những tài liệu có liên quan đến hơn 500 hành động tàn ác mà các điều tra viên chưa thể chứng minh hoặc không được quan tâm đến.

Nhiều người đã điều trần trước Quốc hội Mỹ nói lên các lý do vì sao phải kết thúc Chiến tranh Việt Nam. Ông John Kerry là một trong những người đó.

Trung úy John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng Ngoại giao) đã làm chứng trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thượng Viện Mỹ năm 1971 như sau:

“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Genghis Khan (Thành Cát Tư Hãn), bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này”.

Những gì mà nhiều nhân chứng sống, trong đó có các nạn nhân của Mỹ, các phóng viên chiến trường ngoại quốc, những hung thủ lính Mỹ kể lại v.v. đều phù hợp với những gì Bác Hồ và cả những cựu chiến binh Nam Bộ nói về tội ác của giặc Mỹ ở nhiều khu vực dân cư miền Nam Việt Nam: “Chúng dùng chính sách 3 sạch: Giết sạch, phá sạch, đốt sạch.”

Sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tội ác chiến tranh xâm lược” do Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh và Nhà xuất bản Trẻ ấn hành vào năm 2003, sưu tầm và ghi lại lời chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu mạnh mẽ với ký giả quốc tế như sau:

“Vì Mỹ đất nước chúng tôi bị chia cắt làm đôi, đồng bào miền Nam chúng tôi đang lâm vào tình cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng. Vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam có những tòa án phát xít, những luật lệ bạo ngược, những máy chém lưu động giết người khắp thành thị và thôn quê, có những trại giam khổng lồ, giam cầm và tra tấn hàng chục vạn người, giết chết hàng vạn người yêu hòa bình và yêu Tổ quốc. Vì Mỹ mà có những sư đoàn, binh lính với máy bay, xe tăng và đại pháo Mỹ đi càn quét liên miên, giết hại thường dân, đốt phá làng mạc. Nói tóm lại vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian”.

Trước đây, năm 2005, nhà sử học, nhà báo Nick Turse đã hoàn thành quyển sách Kill Anything That Moves: U.S. War Crimes And Atrocities In Vietnam, 1965-1973 (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Tội ác chiến tranh tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam, 1965-1973), Đại học Columbia xuất bản. Sách được đánh giá cao trên văn đàn một thời. Sách đã đoạt giải thưởng Ridenhour của National Press Club vào năm 2009

Lần này, sách Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Cuộc chiến thật sự của Mỹ ở Việt Nam) của cùng một tác giả, do Metropolitan Books mới xuất bản ngày 15 tháng 1, 2013, đã một lần nữa, đưa ra những hình ảnh chân thật đến trần trụi của quân đội Mỹ đối với người dân và đất nước Việt Nam. Tác phẩm này là một công trình phát triển từ quyển sách của tác giả năm 2005.

Trong tác phẩm mới, ông Nick Turse đã trích dẫn những hồ sơ của chính phủ Mỹ và Lầu Năm Góc cho thấy trong cuộc chiến ở Việt Nam, chính phủ Mỹ đã thi hành cuộc tàn phá hàng loạt vào con người và tài sản một cách có hệ thống trong suốt cuộc chiến.

Tiếp theo một số bài báo trước đây của Nick Turse, cuốn sách đưa ra những tư liệu cho thấy, những vụ hiếp dâm hàng loạt, tra tấn, xẻo thịt dân thường Việt Nam, trong đó có vụ thảm sát làng Mỹ Lai năm 1968 khiến hơn 500 dân thường bị giết, không phải là những hành động lầm lạc trong những giờ phút thiếu suy nghĩ, mà là chính sách cố sát và khủng bố có hệ thống trong cỗ máy chiến tranh của Mỹ. Các cuộc thảm sát tương tự vụ ở làng Mỹ Lai không phải sự cố bất thường, mà là một trong các “chiến dịch” thực hiện thường xuyên theo chính sách của Mỹ.

Theo tài liệu mà Turse có được, Mỹ Lai là một chiến dịch, không phải sự lầm lạc. Không chỉ nghiên cứu qua hồ sơ, tài liệu, Turse còn phỏng vấn rất nhiều tướng lĩnh và quan chức dân sự cao cấp, các nhà điều tra tội phạm, cựu chiến binh từng chứng kiến hoặc phạm tội ác. Turse cũng đã đến Việt Nam nhiều lần để phỏng vấn những người sống sót từ các cuộc thảm sát đó.

Quyển sách ngay từ chương 1 đã tường thuật từ thời kỳ quân đội Mỹ được huấn luyện ở các quân trường tại Mỹ (Fort Benning, Camp Lejeune, bang Georgia v.v.) thì tinh thần kỳ thị chủng tộc (như của tướng Douglas MacArthur) đã được nhồi nhét tối đa để giúp người tân binh Mỹ có thể giết kẻ thù – người Việt Nam – mà không hối tiếc hay ân hận. Cựu chiến binh Wayne Smith khi trả lời phỏng vấn của tác giả, đã kể lại rằng các huấn luyện viên quân đội không bao giờ gọi người Việt Nam là “Vietnamese”, thay vào đó là những chữ tiếng lóng hạ cấp như “dinks”, “gooks”, “slopes”, “slants”, những từ ngữ không còn mang ý nghĩa tượng trưng cho con người văn minh, hay thậm chí là những con người bình thường, mà là những ngôn từ miệt thị, lăng mạ, hàm ý khinh khi người Việt như một giống dân hạ đẳng, “man di mọi rợ”.

Trong vụ thảm sát Triệu Ái, khi trung úy Maynard quăng lựu đạn xuống hầm một căn nhà trong làng Triệu Ái, trung úy Bailey cho biết có con nít trong hầm ấy. Nhưng trung úy Maynard trả lời: “Kệ mẹ nó, rồi tụi đó lớn lên thì cũng trở thành Việt Cộng thôi.”

Tiếp theo một số tác phẩm trước đây của ông Nick Turse, cuốn Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam đã đưa ra những hồ sơ, tư liệu, dữ liệu cho thấy những vụ hủy diệt hàng loạt, dâm sát, tra tấn, cắt xẻo bộ phận cơ thể đối với các đối tượng dân thường Việt Nam từ nam đến nữ, từ bé đến già, từ cộng sản đến không cộng sản v.v. nhiều vụ không phải hành động lầm lạc trong những giây phút thiếu suy nghĩ, mà là chính sách có hệ thống trong cỗ máy chiến tranh của Mỹ thời đó. Cuộc thảm sát làng Mỹ Lai và nhiều cuộc thảm sát khác không phải là sự cố bất thường, mà là chiến dịch quân sự thực hiện theo chính sách quân sự Mỹ, nhằm khủng bố tinh thần và xóa trắng các pinkville (làng hồng), là những làng xã mà họ nghi ngờ là có giúp đỡ, tiếp tế cho quân kháng chiến. Khủng bố để răn đe “làm gương”, gieo rắc sợ hãi để người dân và các làng bên lấy đó “làm gương”, không còn dám nuôi giấu những người chống Mỹ.

Sau bao nhiêu phỏng vấn và tìm hiểu, ông đã cho biết: “Hàng trăm báo cáo mà tôi tập hợp được cùng với hàng trăm nhân chứng tôi từng phỏng vấn ở Mỹ và Đông Nam Á cho thấy một điều rõ ràng rằng, việc giết hại dân thường – dù một cách máu lạnh như ở Mỹ Lai hay một cách bàng quan vô cảm như ở Bình Long – đều rất phổ biến, diễn ra thường xuyên, và xuất phát từ chính sách chỉ huy của Mỹ.

Đây là những lời bình tiêu biểu về quyển sách còn rất mới này của nhà báo kiêm sử gia Nick Turse, qua những lời bình của các nhà phê bình của Mỹ càng cho thấy rõ hơn các tội ác cố sát có hệ thống, theo chính sách của chính phủ Mỹ, gây ra bởi quân đội Mỹ ở Việt Nam.

Nhà báo Steve Weinberg bình luận trên báo Star Tribune:

Trong cuốn sách mới, “Giết mọi thứ di động” (Mới Xuất Bản Ngày 15-1-2013, Metropolitan Books), ký giả Nick Turse đã chứng minh, sau một thập niên khảo cứu về những điều khó chấp nhận, là không quân và lục quân Mỹ đã giết thường dân ở ngoài Bắc và ở trong Nam theo một chính sách lặp đi lặp lại, ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.

Sự tàn sát các dân thường ở Mỹ Lai bởi lính Mỹ đã được quần chúng biết đến nhiều, nhờ phần lớn vào sự điều tra của ký giả Seymour Hersh. Nhiều độc giả tìm biết về cuộc chiến tranh Việt Nam tưởng rằng Mỹ Lai là một việc xảy ra đơn độc, phần lớn phạm phải bởi một sĩ quan trẻ tên là William Caley. Không hẳn vậy, Nick Turse đã chứng minh rằng Mỹ Lai là vụ điển hình cho nhiều vụ tàn sát như vậy, trong một số vụ những người bị tàn sát là trẻ con, người già và phụ nữ. Trước khi giết, bao giờ cũng là hãm hiếp, tra tấn nhiều cách khác nhau, mà không có một quân nhân nào bị trừng phạt….

Học giả, nhà văn Jonathan Schell đã viết trong bài How did the Gates of Hell open in Vietnam? (Cửa địa ngục đã mở ở Việt Nam như thế nào?) trên báo Asia Times:

Tỉ mỉ gắn kết lại với nhau từ những thông tin mới được giải mật, những hồ sơ tòa án binh, những phúc trình của Lầu Năm Góc, và những cuộc phỏng vấn trực tiếp ở Việt Nam và ở Mỹ, cũng như những tài liệu trên báo chí cùng thời và tài liệu phụ, Turse phát hiện ra những tình tiết về sự tàn phá, cố sát, thảm sát, hiếp dâm, và tra tấn mà một thời được coi như là những tội ác lẻ tẻ thật ra là chuyện thường xuyên, cộng với một luồng tàn bạo liên tục, bộc lộ, năm này qua năm khác, trên khắp đất nước đó.

Nhà văn Tim O’Brien bình luận trên trang Amazon:

Không có cuốn sách nào mà tôi đọc trong vài thập niên làm tôi run rẩy như vậy với tư cách là một người Mỹ. Turse phanh phui ra thực chất một cuộc chiến quá ư tàn bạo hơn là những điều mà những người Mỹ ở trong nước được quyền biết. Turse vạch trần ra những chính sách chính thức khuyến khích binh sĩ Mỹ và không quân giáng sự khủng khiếp và đau khổ không thể hình dung được xuống người dân thường Việt Nam, theo đó là những sự bưng bít chính thức cũng kiên trì như Turse đã kiên trì trong nỗ lực điều tra trong cả một thập niên để chống lại những sự bưng bít này. Cuốn “Giết mọi thứ di động” là cuốn những người Mỹ phải đọc, vì những hàm ý trong đó về mức độ tàn bạo và dân thường chết chóc giáng lên họ và sự bưng bít trong những cuộc chiến gần đây của chúng ta chắc chắn sẽ xảy ra và làm chúng ta sửng sốt.

Nữ nhà báo Frances FitzGerald bình luận trên trang Amazon:

Nick Turse đã làm hơn nhiều người khác để chứng minh, với tài liệu, điều rất hiển nhiên: Những sự tội ác tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam không phải là lẻ tẻ và tình cờ, mà là thường xuyên xảy ra khắp nơi và là kết quả không tránh được của chính sách quân sự của Hoa Kỳ.

Nữ giáo sư sử học Đại học New York Marilyn Young bình luận trên trang Amazon:

“Cuốn sách của Nick Turse là một tài liệu căn bản, một tường trình hùng hậu và đầy xúc động đến ngay vào vùng tim đen của cuộc chiến tranh ở Việt Nam: Sự tàn sát thường dân một cách có hệ thống, chứ không là một sơ xuất, là một thủ tục hành quân đúng tiêu chuẩn. Cho đến ngày nào bản tường trình lịch sử này được thừa nhận, chính sách này vẫn sẽ được tiếp tục dưới hình thức này hoặc hình thức khác trong những cuộc chiến mà nước Mỹ sẽ tiếp tục dính vào.”

Giáo sư sử học Đại học Massachusetts Christian Appy bình luận trên trang Amazon:

“Từ cuộc nghiên cứu trong hơn một thập niên trong những hồ sơ mật Lầu Năm Góc và những cuộc phỏng vấn sâu rộng các cựu quân nhân Mỹ và những người Việt sống sót, lần đầu tiên Turse vạch rõ là những chính sách của Mỹ đã đưa đến kết quả là hàng triệu người dân thường vô can đã bị giết và bị thương. Với những chi tiết gây sốc, Turse vạch rõ những hệ thống mặc định của cỗ máy quân sự Mỹ đã làm cho những tội ác trong những đơn vị chính của Mỹ không thể tránh được. Cuốn “Giết Mọi Thứ Di Động” đưa chúng ta đến từ văn khố ở Washington đầy những những hồ sơ về sự dẹp bỏ các cuộc điều tra những tội ác của lính Mỹ cho tới những thôn xã ở miền quê Việt Nam mà người dân gánh chịu trong cuộc chiến, từ những trại huấn luyện lính Mỹ trong đó những người lính trẻ được dạy để thù ghét mọi người Việt cho đến các chiến dịch khát máu như chiến dịch Speedy Express mà một vị tướng, ám ảnh bởi cách đếm xác chết đã dẫn binh lính phạm phải điều mà một quân nhân tham dự gọi là “mỗi tháng một Mỹ Lai”.”

Một số ngộ nhận thường thấy trong cuộc chiến

Phần này không nói tới những ngộ nhận ấu trĩ, cực đoan và có tính chất điên rồ như “nội chiến Nam Bắc tương tàn”, “Mỹ không xâm lược”, “vai trò Trung – Xô với Hoa Kỳ là như nhau, ngang nhau”, “Việt Cộng kéo quân đến đâu là người dân bỏ chạy đến đó”, “Tội ác cộng sản”, “Mỹ-ngụy không ác, tại sơ ý trong chiến tranh thôi”, “chất độc da cam là vô hại”, “miền Bắc cưỡng chiếm và xâm lăng miền Nam” v.v. tồn tại trong đầu óc của một bộ phận nhỏ mà nhiều người khác đã lên án. Phần này chỉ nói về những ngộ nhận thấy nhiều ở cả những người đàng hoàng tử tế.

Ngộ nhận: Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 căng thẳng, dữ dội cho quân đội Hoa Kỳ hơn Chiến tranh Việt Nam.

Thực tế: Đối với quân đội Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam căng thẳng hơn Thế chiến II. Trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc Thế chiến II) tốn khoảng 40 ngày chiến đấu trong 4 năm. Nhưng trung bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tốn khoảng 240 ngày chiến đấu trong 1 năm nhờ chiến thuật Trực thăng vận.

Ngộ nhận: Hiệp định Genève 1954 quy định chia cắt đất nước Việt Nam ra thành 2 quốc gia khác biệt. Câu cửa miệng thường nghe từ một số người thiếu thông tin là: “Hiệp định Geneve chia đôi đất nước” hay “Việt Nam bị chia cắt thành 2 miền theo hiệp định Geneve”.

Thực tế: Bản thân hiệp định Genève 1954 không có điều khoản nào quy định chia cắt Việt Nam thành hai quốc gia. Hiệp định Genève 1954 chỉ công nhận giới tuyến quân sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tạm chia làm 2 vùng tập trung quân sự cho quân đội hai phía Việt – Pháp tập kết, chứ không có ý nghĩa chia cắt về chính trị hay lãnh thổ.

Đây không phải là hiệp định chia cắt đất nước như một số người thiếu thông tin đã nhầm lẫn, mà trái lại, là hiệp định lập lại hòa bình, độc lập và thống nhất của 3 nước Đông Dương, Pháp rút quân trong 2 năm và tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam năm 1956.

Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần “Thỏa hiệp” và phần “Tuyên bố Cuối cùng” (Final Declaration). Phần “Thỏa hiệp”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Henri Delteil, Quyền Tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng quốc phòng VNDCCH. Phần này có những điều khoản chính như sau:

  • Thiết lập một đường ranh giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 (Provisional Military Demarcation Line) để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở trên vĩ tuyến 17, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (French Union), bao gồm lính Pháp và lính bản xứ ở dưới vĩ tuyến 17.
  • Sẽ có một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn cõi Việt Nam vào năm 1956. Quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam trong 2 năm.

Bản “Tuyên bố cuối cùng” gồm 13 đoạn, nói đến cả sự thống nhất và độc lập của 3 nước Đông Dương, trong đó có một đoạn đáng để ý và cực kỳ quan trọng, đoạn (6) (Paragraph [6]) là như sau: “Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI. Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam”.

Và phần đầu của đoạn (7) nguyên văn như sau: “Hội Nghị tuyên cáo rằng, về Việt Nam, sự dàn xếp những vấn đề chính trị, thực hiện trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc về nền độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ khiến cho người dân Việt Nam được hưởng những quyền tự do căn bản, bảo đảm bởi những định chế dân chủ được thành lập như là kết quả của một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu bầu kín.” Và cuộc tổng tuyển cử đó sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956.

Nói chung đây là các ý chính của hiệp ước Genève 1954:

  • Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam – Campuchia – Lào.
  • Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
  • Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập trung quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm cả người miền Nam) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam.
  • 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.
  • 2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất lại Việt Nam.

Người Mỹ vốn không ký vào hiệp định Genève 1954 để tránh bị ràng buộc pháp lý, bất lợi cho việc xâm lược và chia cắt Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng chính họ cũng đã “nói hớ” và vô tình cho thấy rằng hiệp định Genève 1954 không hề là hiệp định chia đôi Việt Nam.

Nhà sử học, chính trị học George McTurnan Kahin và John W. Lewis trong sách The United States in Vietnam: An analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam (Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam), do Delta Books xuất bản năm 1967, đã cho biết: “Trong bản Tuyên ngôn đơn phương (Unilateral Declaration) của Hoa Kỳ về Hội nghị Genève không có chữ nào nói đến “Bắc Việt Nam” hay “Nam Việt Nam”. Tất cả những gì mà bên đại diện Mỹ nói đến là một Việt Nam”.

Những bằng chứng ở trên đã cho thấy hiệp định Genève 1954 không chia đôi đất nước, mà ngược lại chính là quy định việc thống nhất đất nước. Chính sự xâm lăng và phá hoại tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève 1954 của Mỹ đã đưa tới sự chia đôi đất nước.

Ngộ nhận: Sau hiệp định Paris 1973 và với sự vắng bóng của đại quân Hoa Kỳ, chính Việt Nam đã vi phạm hiệp định tấn công và dứt điểm chính quyền Sài Gòn để kết liễu chiến tranh.

Thực tế: Ý trên thoạt nghe qua bên ngoài thì thấy có vẻ hữu lý, nhưng thực tế không phải vậy. Ý định của Việt Nam là ngưng bắn để có hòa bình, dùng đòn chính trị – ngoại giao đấu tranh đòi thực hiện tổng tuyển cử để thành lập chính phủ liên hiệp 3 thành phần, trong đó Việt Nam đã có sẵn 2 quân bài, vũ khí chính trị là Mặt Trận và Liên Minh, Thiệu hầu như chắc chắn phải chịu lép vế. Nên Việt Nam không/chưa cần ra đòn quân sự, trái lại đã truyền lệnh cho các đơn vị miền Nam phải ngưng bắn, án binh bất động.

Mỹ-Thiệu biết đây là giai đoạn khó khăn nên đã tận lực khai thác, lợi dụng sự án binh bất động này của quân Giải phóng mà “tiên hạ thủ vi cường” (đánh trước chiếm ưu thế), mong giành lấy thế thượng phong về quân sự trong giai đoạn mới.

Chữ ký của Mỹ-ngụy còn chưa khô mực vào hiệp định có những nội dung sau, thì họ đã mau chóng không giữ lời:

Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã quy định trong hiệp định Genève 1954.

Những hành động phá hoại hiệp định nói trên đã không cho thấy điều đó.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, “cố vấn” và chuyên viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

Mỹ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ và nắm chính trị, quân sự, kinh tế ở miền Nam. Tiếp tục cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Nguyễn Văn Thiệu. Duy trì chế độ thực dân mới. Rút đại quân nhưng để lại hàng vạn sĩ quan “cố vấn” và nhân viên quân sự mặc thường phục, khắp miền Nam vẫn đầy người Mỹ.

Sau năm 1973, lính Mỹ có quay lại Việt Nam trong các đợt rời rạc, đặc biệt là lính Thủy quân Lục chiến. Việc quân chính quy Mỹ rút đi và chấm dứt các chiến dịch quân sự trực tiếp do thực binh Mỹ tiến hành không có nghĩa sau năm 1973 không còn người Mỹ, sĩ quan Mỹ, quân nhân Mỹ nào ở Việt Nam. Mỹ cam kết trong hiệp định rằng sẽ phá đổ các căn cứ quân sự Mỹ, nhưng họ đã bội ước và chuyển giao lại cho quân đội Sài Gòn.

Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền (chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn), hai quân đội (Quân Giải phóng miền Nam và quân đội Sài Gòn), hai vùng kiểm soát (vùng giải phóng và vùng tạm chiếm) và ba lực lượng chính trị (Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn, lực lượng thứ ba).

Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử, và cuộc bầu cử đã không bao giờ diễn ra được. Họ không từ bỏ ý định duy trì chủ nghĩa thực dân mới đối với miền Nam Việt Nam, cố gắng bám víu, sử dụng nơi đây như một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ và là một thuộc địa kiểu mới. Họ đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân mới trên quy mô lớn. Mỹ đã tăng cường cung cấp quân sự và chu cấp kinh tế cho chính quyền bù nhìn, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy cuộc chiến, với hàng vạn “cố vấn” và nhân viên quân sự người Mỹ đội lốt dân sự.

Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

Hàng vạn tù binh và dân thường Việt Nam đến ngày 30/4/1975 mới được tự do khi Côn Đảo và Phú Quốc được giải phóng. Trước ngày 30/4 các tù nhân, tù binh phía Việt Nam vẫn đầy ở Côn Đảo, Phú Quốc và nhiều nơi khác, không hề được trao trả theo hiệp định.

Ngộ nhận: Chính quyền Sài Gòn bị Mỹ bỏ rơi sau sự kiện ký kết hiệp định Paris 1973. Sau khi Hoa Kỳ rút đại binh về nước thì đã cúp hoặc giảm lớn viện trợ ngay cho chính quyền Sài Gòn. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Quốc và khối xã hội chủ nghĩa tăng cường viện trợ hoặc vẫn duy trì viện trợ như cũ cho Hà Nội.

Thực tế: Nhà báo, nhà sử học người Mỹ Gabriel Kolko, tác giả cuốn sách Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải phẫu một cuộc Chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện đại) do NXB Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, cho biết sau khi hiệp định Paris 1973 được ký kết thì người Mỹ đã cho ông Thiệu mọi phương tiện để vi phạm hiệp định, họ cam kết tiếp tục trợ cấp đầy đủ về kinh tế và quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; Mỹ công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là “chính quyền hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam”; không thừa nhận chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và thành phần chính trị thứ ba, như đã thỏa thuận trong hiệp định Paris.

Theo nguồn của NXB Thông Tấn, Hà Nội, viện trợ quân sự tài khóa 1973-1974 của Mỹ dành cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là 1,26 tỷ USD theo giá thời đó, tương đương 6,74 tỷ USD ngày nay.

Theo thống kê của chuyên gia kinh tế học Douglas C. Dacy trong sách Foreign Aid, War, and Economic Development: South Vietnam, 1955-1975 (Viện trợ nước ngoài, Chiến tranh, và Phát triển kinh tế: Nam Việt Nam, 1955-1975), do Đại học Cambridge (Anh) xuất bản năm 1986 và 2005, ngay sau năm 1973 (sau khi hiệp định Paris 1973 được ký kết), đến năm 1974, bên cạnh duy trì viện trợ quân sự thì Hoa Kỳ đã tăng viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn 23,8%.

Sau năm 1973, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam đã giảm đột biến, tổng số tấn vũ khí và thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ 171.166 tấn/năm trong thời kỳ 1969-1972 giảm xuống còn 16.415 tấn/năm trong thời kỳ 1973-1975.

Theo văn kiện “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua”, do Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam giải mật và NXB Sự Thật xuất bản năm 1979, giai đoạn sau năm 1973 là lúc mà Trung Quốc ngày càng bộc lộ ý đồ phản bội, đi đêm với Mỹ sau lưng nhân dân Việt Nam, cũng như trước đó họ đã có ý can thiệp vào hội nghị Paris về Việt Nam nhưng bị Việt Nam từ chối.

Ngoài ra, theo các tướng tá cũ của quân đội Sài Gòn như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, thì vào những ngày cuối tháng 4/1975, Trung Quốc đã thông qua tướng Francois Vanussème, tùy viên quốc phòng và an ninh của Tòa đại sứ Pháp ở Sài Gòn để chuyển đến “tổng thống” Dương Văn Minh ý định can thiệp của Trung Quốc để cứu chính quyền Sài Gòn đang trong cơn nguy kịch. Người Trung Quốc muốn thông qua người Pháp là vì ông Dương Văn Minh là một người thân Pháp, đã từng phục vụ trong quân đội Pháp.

Ngộ nhận: Nguyễn Văn Thiệu lấy cắp 16 tấn vàng và “báo chí Hà Nội có chủ trương khai thác đề tài này để rêu rao tuyên truyền bôi xấu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”.

Thực tế: Theo cựu nhân viên tình báo CIA chi nhánh Sài Gòn Frank Snepp trong sách Decent Interval (Khoảng thời gian tao nhã), do Penguin Books xuất bản năm 1980, thì đêm 25 tháng 4, các điệp viên CIA đã đưa Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu ra đi và khi đó Thiệu không còn quyền lực gì đối với 16 tấn vàng vẫn nằm nguyên vẹn trong hầm chứa của ngân hàng chính phủ . Còn dư luận thì vẫn bán tín bán nghi về tin đồn ông Thiệu mang vàng đi, dù đã có tuyên bố cải chính của chính quyền Sài Gòn ngày 16/4/1975.

Trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập, tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết: Nguyễn Văn Hảo vào gặp “tổng thống” Trần Văn Hương và dọa rằng: “Nếu tổng thống cho phép chuyển số vàng ấy ra ngoại quốc thì trong trường hợp tướng Minh (tức ông Dương Văn Minh) lên thay, tổng thống sẽ bị lên án là phản quốc!”. Ông Hương đồng ý giữ vàng lại. Sáng ngày 24 tháng 4 (một ngày trước khi ông Thiệu rời Việt Nam), ông Hảo điện cho cố vấn kinh tế đại sứ quán Mỹ Denny Ellerman, nói rằng: “Tổng thống” Trần Văn Hương đã quyết định hoãn vô thời hạn việc chuyển vàng ra khỏi Việt Nam, cho đến khi một chính phủ mới được thành lập.

Đại sứ Graham Martin ngạc nhiên trước tin này, nhưng ông ta cũng không cho Trần Văn Hương hủy bỏ lệnh ấy mà quyết định tạm để vàng ở lại vì nó có thể nâng cao vị thế nào đó của chính quyền Sài Gòn khi thương lượng với phía kháng chiến. Ông lệnh cho chiếc máy bay tiếp tục đợi cho đến nửa đêm ngày 27 tháng 4. Sau này khi trả lời phỏng vấn Ts. Nguyễn Tiến Hưng ngày 27/3/1985, Martin kể: “Vào lúc chót, tôi có nghĩ đến việc liên lạc với người bạn cũ ở Thái Lan là tư lệnh không quân Dhawee Chulasapaya. Sau đó, kêu gọi thêm một số thủy quân lục chiến Thái Lan bay qua Sài Gòn để giải phóng số vàng, mang nó đi. Nhưng chỉ nghĩ thế thôi…. Vàng vẫn còn lại ở đó”.

Như vậy, Nguyễn Văn Thiệu không có và không cần lấy cắp 16 tấn vàng đem đi vì tài sản của ông ta, kể cả bên Mỹ, là đã dư dả cho ông ta và con cháu sống sung túc cả đời. Báo chí cách mạng Việt Nam cũng chưa bao giờ có chủ trương tuyên truyền về một tay sai Mỹ nên không có chủ trương khai thác vụ 16 tấn vàng để bôi nhọ Thiệu.

Từ đầu tháng 4 năm 1975, khi Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tại vị, một số tờ báo nước ngoài đã bắt đầu đăng tải tin về kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài với sự ám chỉ về một âm mưu chiếm đoạt của ông ta. Chính báo giới Sài Gòn là những cơ quan truyền thông đầu tiên đưa tin về sự kiện này. Tuy có báo đăng tuyên bố cải chính của chính quyền Sài Gòn, nhưng sau khi ông Thiệu đã ra đi, ngày 28 tháng 4, báo Độc Lập (một tờ báo của ngụy quyền) đã trích dẫn lại một bản tin của hãng thông tấn Reuters về chuyến ra đi của ông Nguyễn Văn Thiệu: “Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự, một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”. Các báo chí khác, trong và ngoài nước, đã viết tường thuật nói ông Thiệu đã bỏ trốn với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố của chính quyền Sài Gòn.

Trong buổi họp báo và trả lời phỏng vấn được thực hiện vào ngày 16/6/1990 tại Orange County, California, để “giải oan” cho mình, Nguyễn Văn Thiệu đã thừa nhận việc “cộng sản đăng báo khen ngợi những tên viên chức ngân hàng phản bội” và “những tên công chức ngân hàng đã dùng vàng tâng công với cộng sản rằng không có tấn vàng nào bị mất trên báo chí cộng sản” (trong đó có ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa kho vàng, từng làm việc trong ban lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia). Như vậy, có thể thấy rằng không có chủ trương khai thác chuyện 16 tấn vàng để tuyên truyền chống ông Thiệu trên báo chí.

Ngay sau khi giải phóng các nhân vật coi giữ tài chính của ngụy quyền đã ra hợp tác ngay với chính quyền cách mạng. Báo chí cách mạng khi đó đã đăng tải các phỏng vấn đầy đủ rằng nhờ tài trí của quân dân và công lớn của những viên chức ngụy quyền giác ngộ cách mạng nên nhân dân đã không bị mất 1 xu.

Như thế rõ ràng là không có chính sách tuyên truyền nói xấu Thiệu hay tuyên truyền gì về 16 tấn vàng. Sở dĩ tin đồn thất thiệt này được vang xa có lẽ một phần do nhân dân vốn đã không ưa Thiệu, rồi cứ thế một đồn mười, mười đồn trăm, rồi sau đó nhiều nhà báo do không nắm vững nên cũng viết lại theo các lời đồn. Nhưng nhiều phần là do chính những quan chức tham nhũng trong bộ máy ngụy quyền vì tham lam nên đã ghen ăn tức ở mà nghi ngờ và tố nhau ăn cắp vàng. Thời điểm ấy quả thật nhiều kẻ muốn thừa cơ lấy cắp vàng đi trốn, song không ai ngờ quân Giải phóng lại đánh nhanh và giải quyết nhanh đến như vậy, họ chưa kịp làm thì cách mạng đã đánh tới. Bọn họ ghét nhau và rất ghen ghét Thiệu nên chính bọn họ đã đồn đại lên, cộng với sự oán ghét của quần chúng Sài Gòn dành cho Thiệu và ngụy quyền Sài Gòn, nên tiếng xấu càng đồn xa.

Sau đây là một số ngộ nhận thường nghe, thường thấy từ những người Mỹ và cả một bộ phận công chúng quốc tế:

Ngộ nhận: Những tội ác của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đúng là rất phổ biến, nhưng đó là do sơ ý, vô tình, vô ý thức, giết nhầm, các hung thủ bị ảnh hưởng từ tác động của ma túy, tâm thần, sự khốc liệt của chiến tranh. Họ công nhận các tội ác và họ lên án nó, nhưng đồng thời họ ngộ nhận nguyên nhân tội ác. Họ lầm tưởng những hành động cố sát là những hành động nông nỗi xuất phát từ một trạng thái tâm lý bất bình thường, mất cân bằng, sự khủng hoảng về tư tưởng, tâm lý, tinh thần trong lửa đạn.

Thực tế: Phần ngay ở trên: “Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận” đã cho biết thực tế chuyện gì đã xảy ra. Phần lớn những tội ác chiến tranh đó từ đâu mà có.

Ngộ nhận: Quân đội Hoa Kỳ tuy thua cuộc chiến, nhưng Lục quân Hoa Kỳ chưa từng thua Việt Cộng một trận đánh nào trên chiến trường miền Nam Việt Nam.

Thực tế: Giáo sư Đại học DeAnza (Mỹ) Michael Kelley trong bài tham luận tháng 7 năm 1998 “Myths & Misconceptions: Vietnam War Folklore” (Truyền thuyết & quan niệm sai lầm: Các “sự tích dân gian” về Chiến tranh Việt Nam), đã viết về ngộ nhận này như sau:

“Truyền thuyết này có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết hơn là sự phân tích hợp lý. Nó hoàn toàn bỏ qua thực tế là kẻ thù của chúng ta đã tiến hành chiến tranh du kích phụ thuộc vào chiến thuật ‘bắn rồi chạy’ (hit-and-run) thiết kế để tránh ưu thế hỏa lực áp đảo của Mỹ. Những người ủng hộ thuyết này dựa trên những thước đo cổ điển của lý thuyết chiến tranh thông thường, nghĩa là, bất cứ ai nắm giữ mặt đất sau khi kết thúc trận đánh thì là người chiến thắng. Nhưng xem sự sáng suốt của các chiến thuật thực tế ở đó (Việt Nam), sẽ là công bằng để nói rằng người Mỹ đã thua nhiều trận đánh.

Trong khi sự thật là quân đội Mỹ đã chiếm được mặt đất tại thời điểm kết thúc trong hầu hết các trận đánh, kẻ thù thường chọn thời điểm buông tha vị trí đó sau khi đã hoàn thành các kế hoạch chiến lược quan trọng. Và sau đó vài giờ thì chiến trường thường xuyên vẫn bị người Mỹ bỏ rơi. Kẻ thù gần như luôn luôn buông ra lãnh thổ ngay sau khi nó đã gây cho quân đội Mỹ lúng túng và bực bội.

Tại Việt Nam, chiến thắng tốt nhất có thể được đo bằng cách xem một lực lượng đạt được mục tiêu của mình trong bất kỳ hoạt động nào. Trên cơ sở đó, quân Bắc Việt / Việt Cộng có thể đã thành công nhiều hơn so với người Mỹ, thực tế là khoảng 85% các hoạt động quân sự, tất cả các địa điểm đánh nhau đã được khởi xướng bởi kẻ thù. Thậm chí nếu tính theo kiểu Mỹ thông thường thì người Mỹ vẫn đã thua một số lượng đáng kể các trận đánh. Trong các cuộc đụng độ lớn đầu tiên của cuộc chiến tranh trong các thung lũng sông Ia Đrăng (Tây Nguyên), tháng 11 năm 1965, ở đó, cả một tiểu đoàn 1 Kỵ binh của Mỹ đã thật sự bị tiêu diệt khi nó vấp vào một trung đoàn Bắc Việt. Khoảng 155 người đã thiệt mạng và 121 người bị thương chỉ trong vài giờ giao tranh ngắn ngủi. “Chiến thắng” chắc chắn không phải là từ ngữ trên môi của bất kỳ người Mỹ nào đủ may mắn để tồn tại trong đám cháy đó.

Vào ngày 2/7/1967, trong quá trình hoạt động, hai tiểu đoàn 1 và 9 Thủy quân Lục chiến đã bị một trung đoàn Bắc Việt phục kích. Chỉ có một trung đội duy nhất còn sống sót để kể lại câu chuyện. Nó không nhiều trong số ít những người tự coi mình là kẻ chiến thắng. Các tổn thất đáng kể như vậy đều khá phổ biến trong suốt cuộc chiến. Trong những cuộc tấn công, quân Bắc Việt / Việt Cộng thường thành công hoàn toàn trong mục tiêu của họ.”

Ngộ nhận: Lính Mỹ chỉ gây tội ác với dân, còn đối với lính Sài Gòn thì xử tốt, nhân đạo, nhân văn. Lính Mỹ và lính Sài Gòn phối hợp tác chiến ăn ý.

Thực tế: CIA đã đứng sau giật dây đảo chính, lật đổ các “nhà lãnh đạo” trong ngụy quyền. Máy bay ném bom Mỹ thường xuyên “dội bom nhầm” lên trên quân lính, sĩ quan, tướng tá ngụy, thủ tiêu bằng nhiều hình thức khác nhau, gây ra nhiều cái chết mờ ám cho cả những quan chức cao cấp ngụy quyền, ví dụ các tướng Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Hiếu. Trong khi chưa bao giờ có các trường hợp không quân ngụy “dội bom nhầm” lên quân Mỹ. Ngay cả trong ngụy quân, ngụy quyền, nhiều người cũng cho rằng đây là những động thái trừ khử những người/nhóm Mỹ không ưa, hoặc để răn đe làm gương cho những người khác. Chuẩn tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Hữu Hạnh, trả lời phóng viên của đài BBC Việt ngữ vào năm 2010, đã nói như sau: “Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay.”

Giáo sư Micheal Kelley nói trên đã viết tiếp về ngộ nhận này như sau:

Tôi không có ý định xúc phạm các độc giả gốc Việt Nam, nhưng một số những gì sẽ được thảo luận ở đây có thể là rất khó chịu cho họ nghe. Những gì sẽ được nói là những khái quát dựa trên những quan sát thực tế của tôi về các thái độ và hành vi của lính Mỹ tại Việt Nam. Có thể có những trường hợp ngoại lệ, nhưng báo cáo này là một nỗ lực trung thực để định lượng những gì tôi đã thấy và trải nghiệm.

Trước khi phục vụ ở đó, hầu hết các nhân viên Mỹ rất ít hiểu biết về đất nước Việt Nam, hay có ít nhiều kiến ​​thức về các nền văn hóa và phong tục dân tộc của nó. Sự thiếu hiểu biết đó trở nên phức tạp bởi sự thất bại nghiêm trọng của quân đội để cung cấp nội dung đào tạo trong vấn đề đó. Người lính bộ binh trung bình có lẽ chỉ tốn 1 hoặc 2 giờ được đào tạo về nền văn hóa và lịch sử Việt Nam. Vẫn có những người khác không hề được đào tạo gì về đất nước họ sẽ sinh sống và chiến đấu trong ít nhất một năm. Kết quả là, các thái độ và hành động của người Mỹ đã bị biến dạng bởi những sự hiểu biết rất hạn chế về các dân tộc Việt Nam.

Đáng buồn thay, tôi đã có thể nói rằng hầu hết quân nhân Mỹ phát triển sự mất lòng tin cơ bản và sự căm ghét đối với Việt Nam nói chung, người Bắc hay Nam Việt Nam không quan trọng. Các thái độ thô lỗ, kiêu căng và cao ngạo của Mỹ tôi nghĩ rằng đó là công bằng để nói rằng người Việt Nam cũng phát triển một tâm lý ghét Mỹ ngược lại.

Các ý kiến ​​của quân đội Mỹ về quân lính Nam Việt Nam hầu như đều là tiêu cực, nếu không nói là hoàn toàn khinh ghét. Các sĩ quan Nam Việt Nam đã đạt được thứ hạng là nhờ sự giàu có và ảnh hưởng chính trị hơn là kỹ năng thực tài. Kết quả quân đội Nam Việt Nam đã lười biếng và không đủ năng lực theo tiêu chuẩn quân đội Mỹ.

Trên thực tế, trong hầu hết các trận giao tranh, quân đội Nam Việt Nam tránh tiếp xúc địch như một niềm tin tôn giáo và vô cùng nhút nhát trong việc giải quyết chiến trường với kẻ thù. Những chuyện này đã gây thất vọng và tức giận cho quân đội Hoa Kỳ. Nhiều binh sĩ Mỹ ngày nay vẫn giữ quân đội Nam Việt Nam trong một tâm lý khinh bỉ lớn, bởi vì họ không muốn xuất hiện để đấu tranh cho sự tồn tại của họ.

Trong nhiều trường hợp, quân đội NVN thậm chí không dám tiếp cận kẻ thù và dựa dẫm, lệ thuộc vào quân đội Mỹ bất cứ khi nào có thể. Quan chức chính quyền thường xuyên bị xem thường bởi những người lính trung bình. Tham nhũng là phổ biến và được che đậy vụng về. Rõ ràng chúng tôi thấy có rất nhiều quan chức chính phủ quan tâm hơn vào việc tham lam bòn rút hơn việc đánh nhau và giành thắng trước Việt Cộng.

Trong nhiều trường hợp, nó có vẻ rõ ràng rằng các quan chức đã chơi cả hai cách, vẫy cờ ba sọc trong một tay và cờ Giải phóng ở tay kia. Mặt khác, trong khi những người lính bình thường của Mỹ có thể không thích đối phương, song hầu hết đều có một sự tôn trọng khả năng chiến đấu, lòng can đảm và quyết tâm của họ. Nhiều người trong số chúng tôi đều kinh ngạc trước những khó khăn và chịu đựng của đối phương. Rõ ràng hầu hết bọn họ là những người đàn ông và phụ nữ cực kỳ dũng cảm, ngoan cường, tháo vát và thật sự tin tưởng vào sự nghiệp của họ. Trái lại, quân đội NVN đã không sở hữu những thuộc tính đó và còn tương phản đáng ngạc nhiên, hiện thực đó đã đặt câu hỏi nghiêm trọng trong tâm trí của chúng tôi về sự tham gia của những người lính chúng tôi. Nhiều hơn một vài người trong chúng ta đã đem cảm giác khó chịu của Mỹ đi quá xa. Đáng buồn thay, nội dung cơ bản của tâm lý phân biệt chủng tộc đó đã chiếm ưu thế và thường điều chỉnh thái độ và hành động đối với người Việt Nam của chúng tôi. Đó là hoàn cảnh không may làm lem luốt quan hệ của chúng tôi với người Việt. Nó cũng dẫn đến nhiều hiểu lầm, những sai lầm ngu ngốc và trong một số trường hợp để lại hậu quả rất bi thảm.”

Xuất phát từ tâm lý thù địch với người Việt Nam, kể cả trong hàng ngũ lính ngụy, và tâm lý chán nản, bất lực trước một cuộc chiến khó khăn vô vọng tìm không ra cách thắng, theo Gs. Micheal Kelley, các hạ sĩ quan Mỹ thời đó hay nói đùa với nhau một câu cửa miệng như sau: “Để thắng cuộc chiến này, tất cả những gì chúng ta cần làm là đặt tất cả người Nam Việt Nam trên tàu thuyền ở biển Nam Trung Hoa và sau đó tấn công hạt nhân cho hai miền thành than. Sau đó, chúng ta cho tàu chìm.”

Tình nghĩa giữa Việt Nam với nhân dân Mỹ và thế giới

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam và bày tỏ tinh thần ủng hộ Việt Nam của người nước ngoài đã diễn ra khắp thế giới, đặc biệt ở ngay tại chính quốc Hoa Kỳ, và đặc biệt dữ dội trong giai đoạn từ năm 1964 đến 1973 khi đại quân Hoa Kỳ trực tiếp chiến đấu ở Việt Nam.

Tại Mỹ, phong trào bao gồm hơn 200 tổ chức quần chúng, trong đó có nhiều tổ chức nằm dưới dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Phối hợp Toàn quốc đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Được hàng trăm thành phố, hàng chục vạn người tham gia đấu tranh bằng nhiều hình thức phong phú và quyết liệt (mít tinh, biểu tình, đốt thẻ quân dịch, bãi khóa, chống lính, tự thiêu….).

Một vài sự kiện tiêu biểu như: Cuộc biểu tình đồng loạt của khoảng 10 vạn người ở 60 thành phố trong ngày Quốc tế phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Miền Nam Việt Nam (15-17/10/1965), do Ủy ban Ngày Việt Nam tổ chức; Tuần lễ chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, tháng 10/1967 của khoảng 2 vạn người khắp nước Mỹ tập trung về Washington (có sự phối hợp đấu tranh của người dân các nước Canada, Anh, Đức, Pháp, Bỉ, Ý, Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, Úc….); có 16 vụ tự thiêu để phản đối cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam; năm 1968, gần 5 vạn thanh niên trốn lính trong phong trào chống đi lính; gần 1 ngàn trường cao đẳng và đại học tổng bãi khóa; gần 300 ngàn công nhân thuộc ngành hàng không, ngành điện…. đình công, làm tê liệt các ngành sản xuất này.

Xuất phát từ sự đàn áp bằng bạo lực và sự kỳ thị của cảnh sát da trắng tại nhiều nơi, ngày 7/8/1966 các cộng đồng người da đen đã phản ứng mạnh và gần như nổ ra nội chiến ở khoảng 100 thành phố, nhất là các thành phố ở California và New York, vùng Tây Nam và Đông Bắc Hoa Kỳ.

Khoảng 16 triệu trong số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh cưỡng bách quân dịch, khoảng 2 triệu người Mỹ bị các chính quyền Mỹ cáo buộc “gây thiệt hại bất hợp pháp” vì phản đối chiến tranh Việt Nam. Trong phong trào chống bắt lính, có khoảng 75 ngàn người Mỹ đã phải bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ, và ở bên ngoài họ tiếp tục đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, trong đó có người thanh niên Bill Clinton, người sau này là tổng thống Hoa Kỳ.

Trong những lần biểu tình phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam, người Mỹ giương cao các biểu ngữ: “Hey, hey LBJ, how many kids have you killed today?” (Lyndon B. Johnson, hôm nay ông đã giết bao nhiêu trẻ em rồi?), “Ho, Ho, Ho Chi Minh! The NLF is going to win!” (Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh! Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ chiến thắng!).

Tóm tắt lại, cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đã được bạn bè thế giới và Hoa Kỳ ủng hộ mạnh mẽ bằng nhiều hình thức phong phú. Trong đó, có:

  • Hơn 10 Ủy ban quốc tế đoàn kết với Việt Nam của các tổ chức dân chủ, tôn giáo và tổ chức xã hội trên toàn thế giới.
  • Hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam ở hầu hết các nước trên thế giới.
  • Hơn 30 hội nghị quốc tế về Việt Nam và nhiều hội nghị quốc tế khác đã dành thời gian thảo luận bàn biện pháp để ủng hộ Việt Nam.
  • Hàng trăm nước có mít tinh, biểu tình, bãi công chống Mỹ xâm lược Việt Nam.
  • Hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ Việt Nam.
  • 16 nước có phong trào hiến máu ủng hộ Việt Nam.
  • 48 người ở 4 nước ngoài tự thiêu (trong đó có 16 công dân Mỹ) để phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
  • 83 cơ quan đại diện Mỹ ở các nước bị người dân đập phá, cờ Mỹ bị nhân dân ở 73 nước đốt để phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

1. Ngọn lửa Morrison

Ngày 2/11/1965, 8 tháng sau khi quân đội viễn chinh Mỹ bắt đầu đặt chân vào Đà Nẵng của Việt Nam, một người Mỹ là Norman Morrison đã tự thiêu ngay trước Lầu Năm Góc ở thủ đô Washington để phản đối Chiến tranh Việt Nam. Hành động này đã làm bùng lên phong trào phản đối Chiến tranh Việt Nam đã âm ỉ từ lâu ngay trong lòng nước Mỹ.

Ông Norman Morrison quê quán ở Erie thuộc bang Pensylvania, Hoa Kỳ. Năm 1959, ông nhận bằng Cử nhân Thần học tại Đại học Pittsburgh Seminary và gia nhập hội “Những người bạn”, một tổ chức gồm những người hoạt động vì hòa bình thế giới. Năm 1961-1962, ông dạy Kinh Tân ước và Cựu ước tại một trường trung học. Ông là một trong những người hoạt động tích cực trong phong trào hoạt động phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của chính quyền Lyndon B. Johnson.

Từ năm 1965, khi Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam và dùng không quân đánh phá tràn lan ra các tỉnh miền Bắc Việt Nam, Morrison đã nhiều lần xuống đường phản đối, nhưng cuộc chiến tranh ngày một khốc liệt hơn. Ông nghĩ rằng các khẩu hiệu, băng rôn và các cuộc tuần hành không làm những người cầm quyền chú ý thì anh phải dùng tới biện pháp cuối cùng: Ngọn lửa của thân thể mình! Thời điểm đó, Morrison đã có vợ và hai con gái, nhỏ tuổi nhất là cháu bé tên Emily, mới 18 tháng tuổi. Buổi chiều ngày 2/11/1965, Morrison bế bé Emily đến sát Lầu Năm Góc, trụ sở của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, bên dòng sông Potomac, sau khi đã viết lá thơ gởi lại cho vợ. Morrison đặt cháu Emily ra xa rồi tưới xăng, châm lửa tự thiêu, ánh lửa bùng lên như một thông điệp của người dân Mỹ đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và các tội ác của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.

chien tranh viet nam

Norman Morrison

Theo hồi tưởng của vợ Norman Morrison, bà Anne Morrison Welsh, vào buổi sáng hôm đó, Morrison bế con gái thứ hai của mình, bé Emily, đi đến trước Lầu Năm Góc. Sau đó, ông đặt Emily xuống, gởi cho một người trong đám đông bạn bè đồng chí hướng vây quanh, tự đổ dầu lên người và châm lửa.

Trong cuốn hồi ký của mình, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ (1961-1968) Robert McNamara đã thú nhận: “Cái chết của Morrison không chỉ là bi kịch cho gia đình anh ta mà còn cả cho tôi và nước Mỹ. Đó là một tiếng kêu gào chống lại những giết chóc đang hủy hoại cuộc đời của những người Mỹ và người Việt.”

Trong phong bì để lại cho người vợ trước khi tự thiêu, Norman Morrison viết:

“Anne yêu quý, đừng chỉ trích anh. Đã nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng, anh chỉ cầu nguyện được thấy điều anh phải làm. Sáng nay, thật tình cờ anh đã thấy nó, rõ ràng như điều anh biết vào đêm thứ sáu, tháng 8/1955 rằng em sẽ trở thành vợ anh…. Hãy hiểu rằng anh yêu các con, nhưng phải hành động vì những đứa trẻ trong ngôi làng của vị linh mục”.

Vợ của Morrison và hai người con gái đã tới Việt Nam vào năm 1999 và họ đã gặp nhà thơ Tố Hữu, người đã sáng tác bài thơ “Emily, con ơi” nổi tiếng.

Ba tuần sau khi ông Morrison hy sinh, bạn bè của ông đã tổ chức một lễ tưởng niệm. John Roemer, một trong những bạn đồng hành của Morrison đã lý giải về hành động tự thiêu của bạn mình: “Trong một xã hội mà mọi thứ đều bình thường khi con người thả bom xuống mục tiêu chính là đồng loại của mình…. Đối với Morrison thì như thế là không bình thường và thông điệp của anh ấy là kêu gọi hãy dừng lại”.

Ngay sau sự kiện lịch sử đó, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Ê mi ly con ơi” nổi tiếng, để tưởng nhớ ông Morrison và tưởng niệm sự kiện này:

Ê mi ly con ơi!
Ê mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…
– Đi đâu cha?
– Ra bờ sông Pô-tô-mác
– Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ…
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh hồn
Còn, mất
Hãy cháy lên, cháy lên Sự thật!
Giôn-xơn!
Tội ác bay chồng chất
Cả nhân loại căm hờn
Con quỷ vàng trên mặt đất.
Mày không thể mượn nước son
Của Thiên Chúa, và màu vàng của Phật!
Mác Na-ma-ra
Mày trốn đâu? Giữa bãi tha ma
Của toà nhà năm góc
Mỗi góc, một châu.
Mày vẫn chui đầu
Trong lửa nóng
Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.

Hãy nhìn đây!
Nhìn ta phút này!
Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tay
Ta là Hôm nay
Và con ta, Ê-mi-ly ơi, con là mãi mãi!
Ta đứng dậy,
Với trái tim vĩ đại
Của trăm triệu con người
Nước Mỹ.
Để đốt sáng đến chân trời
Một ngọn đèn
Công lý.

Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ
Nhân danh ai?
Bay mang những B 52
Những na-pan, hơi độc
Từ toà Bạch Ốc
Từ đảo Guy-am
Đến Việt Nam
Để ám sát hoà bình và tự do dân tộc
Để đốt những nhà thương, trường học
Giết những con người chỉ biết yêu thương
Giết những trẻ em chỉ biết đi trường
Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ!

Nhân danh ai?
Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài
Ôi những người con trai khoẻ đẹp
Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép
Cho con người hạnh phúc hôm nay!

Nhân danh ai?
Bay đưa ta đến những rừng dày
Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến
Những làng phố đã trở nên pháo đài ẩn hiện
Những ngày đêm đất chuyển trời rung…
Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hoá thành những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!

Hãy chết đi, chết đi
Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ!
Và xin nghe, nước Mỹ ta ơi!
Tiếng thương đau, tiếng căm giận đời đời
Của một người con. Của một con người thế kỷ

Ê-mi-ly, con ơi!
Trời sắp tối rồi…
Cha không bế con về được nữa!
Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
Đêm nay mẹ đến tìm con
Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn
Cho cha nhé
Và con sẽ nói giùm với mẹ:
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn!
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Còn mất?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
Ta đốt thân ta
Cho ngọn lửa chói loà
Sự thật.

Tố Hữu

Chien tranh viet nam

Bà Anna Morrison Welsh (giữa) trong chuyến thăm Việt Nam nhân dịp lễ kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam tháng 4 năm 1999.

Khi hay tin về vụ tự thiêu của ông Morrison, Bác Hồ đã gởi lời chia buồn tới bà Anna Morrison Welsh, vợ của Norman Morrison. Còn đối với Emily, mãi đến năm 15 tuổi, lần đầu tiên cô mới được đọc bài thơ của nhà thơ Tố Hữu. Trong bài thơ trả lời “Gửi ngài Tố Hữu”, cô đã nói cảm giác của mình lần đầu tiên được tiếp xúc với bài thơ Tố Hữu viết về người cha:

“Khi tôi mười lăm tuổi
Một người bạn nói
Có một bài thơ
Về tôi.
Một tuần sau lá thư đến
Bằng đường bưu điện
Tôi những muốn mở nó ngay
Nhưng rồi kiềm chế mình
Tôi đã chạy ra ngoài
Ðến dưới gốc một cây thông lớn
Ngồi một mình trên cỏ
Và khi cảm thấy thật bình yên
Mới mở thư ra.
Ngay khi đọc những dòng chữ đầu tiên
Tôi đã khóc…”.

Cô bày tỏ lòng biết ơn nhà thơ Tố Hữu vì nhờ ông mà nhiều người Mỹ biết được ý nghĩa sự hy sinh của cha cô. Và trong buổi gặp mặt với nhà thơ Tố Hữu, chính Emily đã đọc bài thơ do mình sáng tác. Sau khi nghe Emily đọc bài thơ, nhà thơ Tố Hữu đã cảm động đứng dậy ôm cô vào lòng. Rồi nhà thơ Tố Hữu đọc tặng khách một bài thơ mà ông mới sáng tác nói về cái chết, sự hy sinh và dâng hiến, vừa là tâm sự riêng của tác giả (lúc này nhà thơ đã già yếu), đồng thời cũng gần gũi với câu chuyện về ngọn lửa Morrison:

“Xin tạm biệt bạn đời yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ gửi bạn đường, tro gửi đất
Sống là cho và chết cũng là cho”.

Mặc dù hơn ba năm sau khi tiếp gia đình bà Morrison thì nhà thơ Tố Hữu mới từ trần (tháng 12/2002), nhưng bài thơ ông đọc tặng khách cũng là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác thi ca của ông.

Tờ báo The Sun tại Baltimore, Maryland đưa tin sự kiện Morrison tự thiêu

Ngày 15/11/1969, bốn năm sau đó, một cuộc tuần hành khoảng 250 ngàn người nổ ra ở đại lộ số 5 trung tâm New York, chỉ cách Quảng trường Thời đại (Times Square) vài dãy phố. Cùng lúc là hàng loạt các cuộc xuống đường ở nhiều thành phố lớn tại cả bờ Đông và bờ Tây nước Mỹ.

Cuộc biểu tình này vượt tầm kiểm soát của chính quyền Mỹ. Các quan chức Mỹ hỏi nhau: chuyện gì đang xảy ra và tại sao? Trước đó, người Mỹ chỉ nghe về cuộc chiến tranh Việt Nam qua loa tuyên truyền của chính quyền Mỹ. Nhưng cho đến cuộc tấn công mùa xuân 1968, báo chí Mỹ, đặc biệt là truyền hình Mỹ đã truyền tải hình ảnh cuộc chiến Việt Nam đến tận từng gia đình người Mỹ. Người Mỹ nhìn thấy tận mắt binh lính họ châm lửa đốt nhà dân thường, bắn chết người vô tội, những em bé bị bom napalm bốc cháy, tòa đại sứ Mỹ bị đánh úp, binh lính Mỹ kéo lê xác đồng đội….

vietnam war

Người Mỹ châm biếm “con rối Sài Gòn” trong một cuộc xuống đường biểu tình phản chiến.

Phong trào phản chiến bước sang một bước ngoặt mới khi cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên Đại học Tiểu bang Kent (bang Ohio) ngày 4/5/1970 đã bị Vệ binh quốc gia Mỹ xả súng vào. Kết quả là 4 sinh viên bị bắn chết và 9 người khác bị thương.

Vụ xả súng Đại học Tiểu bang Kent đã gây sốc toàn nước Mỹ. Hàng trăm thành phố nổi dậy, có thể nói cả một thế hệ thanh niên và trung niên, đặc biệt cộng đồng người gốc Phi và người gốc Mỹ Latinh, đã tham gia phong trào phản chiến. Đó thật sự là cuộc nội chiến ngay trong lòng nước Mỹ. Có thể nói cuộc chiến đấu ngoan cường của dân tộc Việt Nam đã làm rung động lương tri của nhân dân thế giới và nhất là nhân dân Mỹ, do đó dư luận thế giới thời đó đã gọi Việt Nam là “lương tâm của thời đại”.

2. Biểu tượng Martin Luther King

Ngày 4/4/1967, giữa lúc bom đạn và chất độc hóa học của Mỹ trút xuống Việt Nam, một người Mỹ gốc Phi tuyên bố trước công chúng ở New York: “Tôi nói với tư cách một người anh em của những người Việt Nam nghèo khổ” và kêu gọi: “Để chuộc lại những tội lỗi và sai lầm của chúng ta ở Việt Nam, chúng ta phải chủ động chấm dứt cuộc chiến tranh bi thảm này”. Người đó là mục sư Martin Luther King, Jr., là một nhà tranh đấu cho dân quyền và nhân quyền ở Mỹ. Ông không những nổi danh ở Mỹ mà còn trên thế giới. Ông là một thủ lĩnh nổi tiếng của phong trào đấu tranh đòi quyền công dân, bình đẳng chủng tộc cho người da màu, da đen ở Mỹ.

Ngoài ra, ông còn là người kiên quyết phản đối cuộc chiến tại Việt Nam và hoạt động nhiệt tình cho nền hòa bình của Việt Nam. Các trường học công lập của Mỹ ngày nay chỉ chủ yếu dạy về nỗ lực đòi quyền bình đẳng cho người da màu, da đen của Martin Luther King, Jr., tránh né quan điểm của ông về Chiến tranh Việt Nam và các hoạt động phản chiến của ông, nhiều trường hoàn toàn lờ đi không nhắc đến những chuyện này.

Đúng một năm sau, ngày 4/4/1968, ông đã hy sinh trong cuộc đấu tranh đó. Ông bị ám sát ở Memphis, Tennessee và đến nay “vẫn chưa tìm ra được hung thủ chủ mưu”, “chưa thể điều tra được”. Hồ sơ FBI về vụ án này đã bị xếp xó từ rất lâu. Từ đó về sau Martin Luther King, Jr. đã trở nên một biểu tượng nổi tiếng trong lòng dân Mỹ, nhất là người Mỹ da màu, người Mỹ gốc Phi, đến độ sau này trong các ngày lễ chính thức hàng năm ở Mỹ có một “ngày Martin Luther King”.

Từ giữa năm 1965, Martin Luther King, Jr. đã yêu cầu: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam phải được chấm dứt. Phải giải quyết nó bằng thương lượng”. Ông phản đối Chiến tranh Việt Nam trước hết vì nó trực tiếp gây hại cho cuộc sống của những người Mỹ gốc Phi. Để có tiền cho chi phí chiến tranh, chính phủ Hoa Kỳ đã cắt giảm nhiều chương trình an sinh xã hội cho dân nghèo, đa số là người da màu. Ông và các cộng sự tính toán ra và cho biết chính phủ Mỹ đã tiêu tốn 322.000 USD để giết 1 người du kích ở Việt Nam, nhưng chỉ chi 53 USD cho 1 đầu người trong cuộc chiến chống nghèo đói ở Mỹ.

Nạn phân biệt chủng tộc, kỳ thị màu da còn thể hiện trong chiến tranh. Người da đen chỉ có 13% dân số Mỹ, nhưng chiếm đến 28% số lính Mỹ bị đẩy ra chiến trường. Chỉ có 2% sĩ quan là người da đen. Và tỷ lệ lính da đen chết trận tại Việt Nam luôn cao hơn người da trắng một cách bất bình thường.

Martin Luther King, Jr. đã vạch trần chiêu bài “bảo vệ tự do” giả hiệu mà chính phủ Mỹ thường dùng làm danh nghĩa khai chiến và cưỡng bách thanh niên sang Việt Nam. Ông nói: “Thanh niên da đen bị gửi đi xa 8.000 dặm để bảo vệ tự do cho Đông Nam Á, cái tự do mà họ không tìm thấy ở tây nam Georgia hay ở đông Harlem”.

Vietnam War

Mục sư Martin Luther King, Jr.

Còn một lý do khác, rộng lớn hơn và cao thượng hơn, thôi thúc ông phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã được ông trình bày trong bài nói chuyện tại New York ngày 4/4/1967. Ông rà soát lại chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong 2 thập niên của 4 đời tổng thống: Truman, Eisenhower, Kennedy và Johnson và ông nhận ra rằng trong khi chính phủ Mỹ luôn tự nhận là “lãnh đạo của thế giới tự do” thì chính Mỹ đã đứng về phía thực dân Pháp để chống lại khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam. Sau đây là một vài trích đoạn phát biểu của ông trong bài nói chuyện ngày 4/4/1967:

Năm 1945, người dân Việt Nam tuyên bố nền độc lập của mình…. Họ được Hồ Chí Minh lãnh đạo. Dù họ đã trích dẫn bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ vào bản Tuyên ngôn độc lập của họ, chúng ta vẫn từ chối công nhận họ. Thay vào đó, chúng ta quyết định ủng hộ Pháp trong việc tái chiếm thuộc địa cũ…. Với quyết định bi thảm đó, chúng ta đã bác bỏ một chính phủ cách mạng đang đi tìm quyền tự quyết, một chính phủ được thành lập bởi chính những lực lượng bản xứ, trong đó bao gồm một số người cộng sản….

Trong 9 năm sau đó, chúng ta khước từ quyền độc lập của người dân Việt Nam. Trong suốt 9 năm đó, chúng ta ủng hộ mạnh mẽ Pháp trong nỗ lực đặt lại ách thực dân lên nước Việt Nam. Trước khi chiến tranh kết thúc, chúng ta trang trải 80% chi phí chiến tranh cho Pháp.

Ngay trước khi thua ở Điện Biên Phủ, Pháp đã bắt đầu tuyệt vọng về hành động liều lĩnh của họ, nhưng chúng ta thì không. Chúng ta khuyến khích họ bằng cách viện trợ một khối lượng khổng lồ tài chính và tiếp liệu quân sự để họ tiếp tục cuộc chiến ngay cả khi họ đã mất hết ý chí. Chẳng bao lâu, chúng ta hầu như trả toàn bộ chi phí cho ý đồ tái chiếm thuộc địa này.

Pháp bị người dân Việt Nam đánh bại, phải rút quân về nước. Nhưng Mỹ lại nhảy vào miền Nam, ngăn cản cuộc tổng tuyển cử mà chắc chắn sẽ đưa Hồ Chí Minh lên nắm quyền trong một nước Việt Nam thống nhất. Để giữ miền Nam trong quỹ đạo của Mỹ, chúng ta đã chọn thủ tướng Diệm, một trong những nhà độc tài xấu xa nhất thời hiện đại. Người dân miền Nam phải sống 9 năm dưới sự cai trị tàn bạo của Diệm. Khi Diệm bị lật đổ, lẽ ra họ có thể sống hạnh phúc, nhưng rồi một loạt chế độ độc tài quân phiệt dường như chẳng có gì thay đổi.

Trước phong trào nổi dậy của người dân miền Nam, chúng ta gửi thêm quân lính sang để ủng hộ những chính phủ thối nát một cách kinh dị, lạc lõng, không được dân chúng ủng hộ…. Người dân miền Nam chết dần chết mòn dưới bom đạn của chúng ta và xem chúng ta như kẻ thù đích thực của họ…. Chúng ta buộc họ phải rời khỏi xóm làng của cha ông họ để bị dồn vào những trại tập trung…. Chúng ta rải chất độc xuống các nguồn nước của họ, tàn phá cả triệu mẫu Anh mùa màng của họ…. Chúng ta thử nghiệm những vũ khí mới nhất của chúng ta lên trên họ, giống như bọn Đức Quốc Xã thử nghiệm những loại thuốc mới và những cách tra tấn mới trong các trại tập trung của chúng ở châu Âu…. Chúng ta tàn phá 2 định chế thiết thân nhất của họ là gia đình và xóm làng….

Ở miền Bắc, bom của chúng ta đang liên tục ném xuống đất đai, còn mìn của chúng ta đang gây nguy hiểm cho các đường sông, đường biển…. Cho đến nay, chúng ta có thể đã giết chết một triệu người Việt Nam, phần lớn là trẻ em….

Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã sai lầm ngay từ đầu cuộc phiêu lưu của chúng ta ở Việt Nam, rằng chúng ta đã gây tổn hại cho cuộc sống của người dân Việt Nam….

Bằng cách này hay bằng cách khác, sự điên rồ này phải dừng lại. Chúng ta phải chấm dứt ngay bây giờ…. Chúng ta đã chủ động gây ra cuộc chiến tranh này, chúng ta phải chủ động chấm dứt nó…. Để chuộc lại những tội lỗi và sai lầm của chúng ta ở Việt Nam, chúng ta phải chủ động chấm dứt cuộc chiến tranh bi thảm này.

Sau khi chiến tranh kết thúc, chúng ta phải bồi thường cho những thiệt hại mà chúng ta đã gây ra. Đường lối của Mỹ ở Việt Nam là đáng thẹn và phi nghĩa nên chúng ta phải nói…. Chúng ta không thể im lặng…. Chúng ta phải tiếp tục lên tiếng nếu quốc gia của chúng ta cứ khăng khăng đi theo con đường sai lầm ở Việt Nam. Chúng ta phải sẵn sàng gắn hành động với lời nói bằng cách tìm ra mọi cách phản đối…. Chúng ta phải chuyển từ sự do dự trong quá khứ sang hành động. Chúng ta phải tìm ra những cách nói mới cho hoà bình ở Việt Nam cũng như cho công lý trong thế giới đang phát triển…. Phải làm cho thanh niên Mỹ thấy rõ vai trò của Hoa Kỳ trong việc gây ra chiến tranh ở Việt Nam và yêu cầu họ chọn cách từ chối nhập ngũ vì lý do tín ngưỡng (conscientious objection).”

Ông Martin Luther King, Jr. đưa ra các đề nghị cụ thể:

  • Chấm dứt mọi cuộc ném bom xuống miền Bắc và miền Nam Việt Nam.
  • Đơn phương tuyên bố ngưng bắn với hy vọng hành động đó sẽ tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho thương thuyết.
  • Có ngay những bước đi ngay lập tức để tránh những cuộc chiến tranh khác ở Đông Nam Á bằng cách cắt bỏ việc xây dựng quân sự của chúng ta ở Thái Lan và sự can thiệp của chúng ta ở Lào.
  • Thừa nhận một cách thực tế rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng được sự ủng hộ to lớn ở miền Nam Việt Nam và vì vậy phải đóng một vai trò trong các cuộc thương thuyết và trong chính phủ tương lai ở Việt Nam.
  • Ấn định ngày đưa toàn bộ lính nước ngoài ra khỏi Việt Nam phù hợp với hiệp định Genève 1954.

Bài phát biểu của Martin Luther King, Jr. đã làm tỉnh ngộ rất nhiều người Mỹ, vốn lúc đó vẫn còn biết rất ít về quá trình xâm lược của Mỹ vào Việt Nam. Ông trở thành một trong những nhân vật đứng đầu sáng giá nhất của phong trào chống chiến tranh ở Hoa Kỳ. Uy tín của ông ngày càng tăng. Ông đã kêu gọi được hơn 10 vạn người xuống đường biểu tình ôn hòa phản đối chiến tranh ở New York ngày 15/4/1967, bất chấp bị những chiếc dùi cui giáng xuống, bị bắt giữ, hành hung, trấn áp.

Martin Luther King, Jr. tại trường đại học Minnesota, kêu gọi sinh viên Mỹ phản đối Chiến tranh Việt Nam, chống bắt lính, chống nhập ngũ.

Để tạo cớ đàn áp những người phản đối chiến tranh, chính phủ Mỹ cho CIA tạo dựng những hồ sơ giả và tung tin “phong trào đòi hòa bình được khởi động từ Hà Nội”, những người chống đối chiến tranh, chống quân dịch là “những người cộng sản hành động theo lệnh của các chính phủ nước ngoài”, với những ám chỉ rằng đó là Việt Nam và Liên Xô.

FBI cho người nghe lén điện thoại của ông, đặt máy ghi âm trong phòng khách sạn của ông. Cho tay sai khủng bố tinh thần ông bằng thư rác hay những cú điện thoại nặc danh chửi bới thô tục, quấy rối, dọa bắt cóc, thậm chí cả dọa giết. Nhà của ông ở Montgomery bị đặt bom. Cảnh sát địa phương “không điều tra ra là ai làm”. Ông thừa biết những đòn bẩn nhưng vẫn không chùn bước và tiếp tục hoạt động hăng say trong phong trào phản chiến.

Ngày 28/3/1968, ông tổ chức một cuộc biểu tình đòi hoà bình, yêu cầu chính phủ Mỹ rút quân ở thành phố Memphis, bang Tennessee. Chính quyền phái hơn 4 ngàn Vệ binh quốc gia đến trấn áp, xua đuổi, đánh đập, bạo hành, bắt phải giải tán và bắt giữ 276 người. Ba ngày sau, 31/3/1968, quyết không khuất phục, ông có mặt ở thủ đô Washington tiếp tục nói chuyện tại Nhà thờ Quốc gia.

Vào cuối năm ấy sẽ có cuộc bầu cử tổng thống mới ở Mỹ. Chiến tranh Việt Nam đang là đề tài mang tính thời sự nóng bỏng trong suốt thời gian vận động tranh cử. Những ngôn luận, chính kiến, quan điểm phản đối chiến tranh, phản biện chính sách quân sự, đối ngoại của chính phủ Mỹ có thể khiến Johnson mất đi nhiều phiếu. Vì vậy Martin Luther King, Jr. càng nhận được nhiều thơ từ, cú phone nặc danh dọa giết, dọa ám sát. Trong bài phát biểu ngày 3/4/1968, ông nói trước đám đông: “Cũng như bất kỳ ai, tôi cũng muốn sống thọ. Sống thọ là điều quan trọng, nhưng hiện nay tôi không quan tâm đến điều đó nữa”.

Ngay ngày hôm sau, 4/4/1968, buổi chiều, khi ông đang đứng ở lầu 2 của khách sạn Lorraine ở Memphis, ông bị bắn. Hơn một tiếng đồng hồ sau, ông trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Saint Joseph.

Hay tin ông từ trần, nhân dân Hoa Kỳ và những người yêu hòa bình trên thế giới vô cùng thương tiếc. Ngày 9/4/1968, hơn 30 vạn người đau buồn tiễn đưa linh cữu của ông ra nghĩa trang. Kẻ chủ mưu cho đến nay chưa bao giờ được đưa ra ánh sáng. Sự kiện này trở thành một trong nhiều sự kiện ám sát gây tiếng vang ở Mỹ mà đến nay vẫn “không tìm ra chủ mưu”.

Tổng thống Lyndon B. Johnson đã bất lực trong việc thuyết phục, ép buộc Martin Luther King, Jr. từ bỏ cuộc đấu tranh bất bạo động của ông.

Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và quân đội xâm lược Mỹ, nhân dân thế giới đã đứng về phía nhân dân Việt Nam, bao gồm cả nhân dân Mỹ, chống lại sự gây chiến của Mỹ và các tội ác họ gây ra ở Việt Nam, trong đó có mục sư Martin Luther King, Jr.. Ngày nay ở Việt Nam, có một con đường khang trang ở quận 7 TPHCM mang tên Martin Luther King, Jr..

Bài nói chuyện “Tại sao tôi phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam” của Martin Luther King, Jr., nói về cuộc đấu tranh chống lại “Tam ác” (phân biệt chủng tộc, bóc lột kinh tế, phiêu lưu quân sự). Bài nói chuyện diễn ra ở Nhà thờ Ebenezer Baptist ngày 30 tháng 4 năm 1967.

oOo

Norman Morrison và Martin Luther King, Jr. đã trở thành một trong các biểu tượng cao đẹp nhất tiêu biểu cho sự ủng hộ to lớn của người dân Mỹ và bạn bè thế giới, đã góp phần làm nên thắng lợi cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam.

Đó là một trong những nguyên nhân vì sao trong cuộc thảo luận tại phiên họp thứ 22 của Liên Hiệp Quốc năm 1967 chỉ có các đại diện của 7 quốc gia ủng hộ chính sách của Mỹ tại Việt Nam. Trong khi đại diện của 44 quốc gia đã phản đối gay gắt chính sách của Mỹ, trong đó có 5 đồng minh của Mỹ trong khối NATO.

Phong trào chống chiến tranh Việt Nam ở Mỹ đặc biệt bùng nổ lan rộng sau tác động to lớn của chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Cuộc tổng tiến công và khởi nghĩa này đã biến hậu phương nước Mỹ trở thành một mớ hỗn loạn rối ren.

Phong trào phản chiến sau sự kiện Tết Mậu Thân đã bùng nổ thành một cao trào phản chiến lịch sử, gần như biến thành một cuộc nội chiến đẫm máu. Máu đã đổ khắp nơi trong lòng nước Mỹ. Dân Mỹ kéo xuống đường biểu tình để rồi bị đàn áp, bắt bớ, đánh đập, bắn giết.

Từ đó, quân đội Mỹ ngày càng rệu rã, xuống tinh thần, suy thoái đấu chí và bắt đầu gia tăng những hiện tượng nghiện ma túy, hút chích, sĩ quan bắn chết lính, lính bắn chết sĩ quan rồi đào ngũ bỏ trốn.

Sự kiện Mậu Thân 1968 đã lột trần sự thật tình hình chiến cuộc và tình trạng quân lính Mỹ ở miền Nam Việt Nam, làm cho tất cả người Mỹ, từ công chúng đến quan chức đến quân đội ở Mỹ đều nhìn nhận ra điều mà lâu nay họ không đủ dũng khí để chấp nhận: Trên 55 vạn quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam, báo cáo bao nhiêu chiến thắng, tốn bao nhiêu nguồn lực, nhân mạng, tiền của đổ vào chiến trường miền Nam Việt Nam, rốt cuộc không giữ nổi cả Tòa đại sứ. Một cảm giác tuyệt vọng, chán chường, cảm thấy tất cả đều vô ích, công cốc hết. Người dân Mỹ thì cảm thấy bị phản bội bởi các tuyên truyền tâm lý chiến dối trá. Nhiều quan chức Mỹ cảm thấy bị lừa dối bởi những báo cáo lạc quan giả tạo.

Khoảng 50.000 người dân thủ đô Hoa Kỳ biểu tình phản chiến tại Washington DC.

Ngày 8/2/1965, người dân thủ đô Moskva (Liên Xô) hội họp ủng hộ nhân dân Việt Nam

Jane Fonda (có biệt danh Hanoi Jane), nữ tài tử nổi tiếng của Hollywood, là một trong những người đi đầu trong giới văn nghệ sĩ Mỹ phản kháng Chiến tranh Việt Nam. Bà từng có mặt tại Hà Nội để chia sẻ nỗi đau với người dân thủ đô trong giai đoạn Không quân Hoa Kỳ đang ném bom dữ dội vào thành phố, vào nhà dân. Trong khi Hoa Kỳ đang ném bom, Jane Fonda đã một mình đến miền Bắc và lưu trú tại khách sạn Thống Nhất, Hà Nội (nay là khách sạn Sofitel Legend Metropole). Trong hai tuần ở VN, bà đã đi thăm bệnh viện Bạch Mai, khu Trương Định, nhà trẻ 20/10, thăm lính phòng không….

Daniel Ellsberg ra tòa vì tiết lộ hồ sơ Lầu Năm Góc về Chiến tranh Việt Nam cho Thời báo New York, sau đó được tha bổng dưới áp lực của dư luận trong nước và quốc tế…. Năm 1971, ông đã gây chấn động nước Mỹ khi bạch hóa bản sao chụp 7 ngàn trang hồ sơ Lầu Năm Góc về kế hoạch leo thang chiến tranh Việt Nam, tạo ra một làn sóng phản đối chiến tranh mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử Hoa Kỳ. Năm 2002, ông hoàn thành quyển hồi ký Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers (Những bí mật về chiến tranh Việt Nam – Hồi ức về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm Góc), từng là best-seller năm 2002. Ngay từ khi phát hành, cuốn hồi ký của Ellsberg đã gây xôn xao dư luận. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của chính tác giả và những âm mưu của tổng thống Nixon cùng Lầu Năm Góc đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Trong tác phẩm, Ellsberg đã mô tả lại quá trình nhận thức của ông ta về Chiến tranh Việt Nam như sau: “Thoạt đầu tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm họa về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác”. Daniel Ellsberg từng nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962. Sau đó, ông làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Năm 1967, Ellsberg trở về Mỹ và được phân công làm việc trong nhóm sĩ quan, chuyên viên Lầu Năm Góc chuyên nghiên cứu, phân tích chiến lược tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara. Tháng 3/2006, Ellsberg trở lại thăm Việt Nam và được trao kỷ niệm chương “Vì hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc”, tôn vinh những cống hiến của ông dành cho Việt Nam.

Cảnh sát dùng dùi cui trấn áp nhiều cuộc biểu tình phản đối chiến tranh.

Nguyên nhân chiến thắng

Từ lúc Mỹ thất bại trước Việt Nam, hầu hết giới nghiên cứu, các nhà sử học, nhà quân sự, nhà chính trị học khắp Đông – Tây khi tìm hiểu về lịch sử Hoa Kỳ, về nước Mỹ, về quân đội Hoa Kỳ, và về cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam đều đặt ra một nghi vấn, một câu hỏi: Tại sao Mỹ thua Việt Nam? Tại sao một xứ sở nhỏ bé và được cho là “nhược tiểu” như Việt Nam có thể thắng được đại cường quốc Hoa Kỳ?

Với 58 vạn quân tinh nhuệ, kỷ luật, có kinh nghiệm chiến trường khắp năm châu, với các tướng lĩnh, sĩ quan dày dặn kinh nghiệm khắp thế giới qua Thế chiến II và chiến trường Triều Tiên, từng chiến thắng hầu hết các thế lực quân sự hùng mạnh, thiện chiến từ Á sang Âu. Một quốc gia trong lịch sử gần 200 năm chưa bao giờ nếm mùi thua cuộc. Một lực lượng không quân vô địch, trăm trận trăm thắng, có sức mạnh áp đảo, với máy bay chiến lược B-52 tối tân nhất thế giới.

Họ dùng gần 60 vạn quân trong nội địa Việt Nam, và cả nhiều căn cứ quân sự bên ngoài và chung quanh Việt Nam, tổng cộng gần 1 triệu thực binh Mỹ, rồi cả quân ngụy và quân chư hầu. Với một trình độ phát triển cao hơn nhiều bậc. Với một trình độ khoa học kỹ thuật vượt trội, áp đảo, với một sức mạnh quân sự, ngân sách quốc phòng, khả năng chi tiêu vũ khí, công nghệ chiến tranh vượt trội. Với những vũ khí hiện đại, tối tân, kể cả vũ khí sinh học hủy diệt thiên nhiên, môi trường, mầm sống, sinh vật, cây cỏ, con người, hủy rụi những rừng già thiên nhiên tồn tại hàng ngàn năm để Việt Cộng không thể ẩn thân. Để lại di hại, di chứng tàn khốc đến ngày nay và có thể ngàn năm sau. Với một nền văn minh công nghệ và trình độ sản xuất vượt bậc và bỏ xa Việt Nam.

Họ huy động một lực lượng không quân đánh đâu thắng đó, chưa từng chiến bại, với đủ mọi loại bom, từ bom chùm, bom bi đến bom Napalm rải thảm lên mảnh đất nhỏ bé, với hơn 8 triệu tấn bom, gấp gần 3 lần tổng số bom mà các phe rải xuống trái đất trong Thế chiến II nói riêng và trong lịch sử chiến tranh của nhân loại nói chung.

Trong 10 năm (1961-1971), quân đội Mỹ đã rải khoảng 75 triệu lít chất độc hóa học, trong đó phần nhiều là chất độc da cam, xuống hơn 10% diện tích đất và gần nửa diện tích rừng ở Việt Nam. Tất cả số bom và chất độc hóa học đó đều dồn lại dội xuống một mảnh đất nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu, một quốc gia có tổng diện tích thua nhiều tiểu bang của Mỹ.

Nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và hoạt động môi trường Sarah DeWeerdt, cộng tác viên thường trực của Worldwatch Institute (Viện quan sát thế giới về môi trường) ở Washington (Mỹ), trong bài viết “Modern warfare equals environmental damage” (Các loại hình chiến tranh mới chính là sự hủy hoại môi sinh), đăng trên báo USA Today số tháng 1 năm 2008, đã cho biết sự tàn phá môi trường rộng lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là một trong những nguyên nhân chính mà tiếng Anh có thêm một thuật ngữ mới: “Ecocide” (diệt sinh thái, tương tự thuật ngữ “Genocide” là diệt chủng con người).

Họ bỏ ra hàng tỷ USD lập ra những quân trường rộng lớn, hoành tráng, quy mô, mô phỏng địa lý, khí hậu, thời tiết, phong thổ, rừng cây Việt Nam, nhằm đối phó với chiến tranh du kích của Việt Nam. Xây dựng những cơ quan nghiên cứu, những nhà máy sản xuất những vũ khí đặc thù phù hợp với chiến trường Việt Nam để chống lại con người Việt Nam. Họ làm đủ mọi cách có thể nghĩ ra, họ không bỏ qua một sơ hở nào, một yếu tố nào, một chi tiết nhỏ nào, họ tận dụng mọi lĩnh vực từ chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, tâm lý chiến v.v. đặc biệt là tận dụng ưu thế vượt trội về công nghệ và công nghiệp quân sự. Họ tận dụng mọi lợi thế về khoa học phục vụ chiến tranh. Với những lãnh đạo, tướng lĩnh, chuyên viên tài năng, chuyên nghiệp, làm việc một cách bài bản, khoa học, dưới tay là một đội quân nhà nghề không ai địch nổi.

Họ dùng chiến tranh điện tử với Hàng rào điện tử McNamara, “cây nhiệt đới”. Dùng chiến tranh hóa học với những chất độc sinh học, chất độc diệt rừng, hủy diệt dần mòn con người, môi trường, thiên nhiên, nhằm đè bẹp sức kháng cự của người Việt Nam, và dùng chất độc khai quang hủy diệt các rừng già, cây cỏ, gây khó khăn cho du kích Việt Nam ẩn thân, mai phục.

Vẫn chưa hài lòng với 2 loại hình chiến tranh điện tử và hóa học, Hoa Kỳ còn tiến hành thêm một loại hình chiến tranh công nghệ cao là chiến tranh khí tượng. Đây là một loại hình chiến tranh mà họ đã sử dụng những công nghệ tiên tiến, tối tân nhất cùng những thiết bị hiện đại nhất với mục đích làm đảo lộn, hủy diệt sinh thái, thiên nhiên, gây lụt lội, tắc ách ở trên những tuyến của con đường huyết mạch Trường Sơn chi viện từ Bắc vào Nam…. Nhưng rồi họ vẫn thua Việt Nam.

Học viện quân sự West Point nổi tiếng của Mỹ những năm sau mốc thời gian 1975 đã mở nhiều hội thảo khoa học, nghiên cứu, phân tích, tranh luận từ các hiệu trưởng, cựu hiệu trưởng, giáo sư, giảng viên và cựu giảng viên từng phục vụ trong trường, và những người thỉnh giảng được mời từ bên ngoài, thậm chí từ ngoài nước Mỹ. Họ trình bày các nghiên cứu cá nhân, tham gia phát biểu, hội luận, xem xét, thẩm định, đánh giá từng chiến dịch một, từng thời điểm một, và từng góc độ, từng khía cạnh, để giải đáp câu hỏi hóc búa: Tại sao chúng ta thua Việt Nam? Sau đó họ đã phải chỉnh sửa, cập nhật, thậm chí viết mới lại hoàn toàn, in lại nhiều giáo trình quân sự của trường.

Theo trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Không quân Quân khu Thành Đô, Trung Quốc, khi bình luận chuyên sâu về chiến tranh Iraq trên tạp chí Khoa Học Quân Sự Không Quân của Trung Quốc năm 2010, thì cách thắng một cuộc chiến tranh trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ thường là:

  • Áp đảo ngay từ đầu về chiến tranh thông tin, chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị, tạo ra một sức ép vô hình, một áp lực khổng lồ vô ảnh.
  • Dùng lực lượng không quân và hải quân chất lượng nhất thế giới về năng lực tác chiến và vũ khí tối tân để chiếm lĩnh vùng biển và vùng trời, gây thêm sức ép, tạo thêm áp lực nghẹt thở vây hãm địch.
  • Dùng chiến tranh công nghệ cao và các lực lượng đặc nhiệm, biệt kích có tính lưu động cao, tác chiến nhanh chóng nhằm tê liệt hóa về quân sự và nhanh chóng chiếm lĩnh đầu não, thủ đô của đối phương. Đồng thời áp dụng chiến tranh tâm lý, trong đó có những thủ đoạn khủng bố tinh thần gây khủng hoảng tâm lý để tê liệt hóa về chính trị, xã hội.

Những chiến lược, chiến thuật trên của Mỹ thì ngoài Việt Nam ra cho đến nay chưa gặp đối thủ. Sở dĩ Mỹ thất bại trước Việt Nam, dựa theo các tiêu chí trên thì có thể xét đến các vấn đề sau đây:

  • Việt Nam cũng giỏi về chính trị, tình báo, tuyên truyền, và có ưu thế về yếu tố “nhân hòa”. Mỹ không thể áp đảo được.
  • Đúng là không quân và hải quân Mỹ đã hoành hành trên khắp vùng trời và vùng biển của Việt Nam và tận dụng ưu thế hỏa lực của họ. Nhưng ý chí của quân dân Việt Nam đã khiến hải quân Mỹ không thể gây sức ép tinh thần. Không quân vô địch của Mỹ thì gặp phải khắc tinh là hệ thống phòng không tinh nhuệ hàng đầu thế giới của Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiên liệu và chú trọng xây dựng ngay từ đầu. Không quân Việt Nam không chọi lại Mỹ nhưng các đơn vị phòng không của Việt Nam thì có thể hóa giải không quân của Mỹ.
  • Các biệt đội cơ động, lực lượng đặc biệt, biệt kích thiện chiến tinh nhuệ của họ đều bó tay trước địa hình hiểm trở của Việt Nam, vốn là một ưu thế lớn cho lực lượng du kích bản địa, và thực tế là du kích miền Nam còn cơ động và nhanh nhẹn hơn biệt kích Mỹ nhiều, nhờ trang bị nhẹ và thông thạo đường đi nước bước. Mỹ không có cách bình định được miền Nam, không tiêu diệt được quân Giải phóng, không chiếm được những vùng giải phóng, vì vậy họ không thể tập trung lực lượng lớn để mở một cuộc tổng tấn công ở miền Nam, và càng không thể “mơ giữa ban ngày” về chuyện Bắc tiến, hay hoang đường hơn: Tiến vào Hà Nội chiếm lấy thủ đô của Việt Nam ở tận ngoài Bắc. Họ nhiều lần đem các loại máy bay oanh tạc tối tân nhất ra tàn phá Hà Nội, muốn gây tê liệt hóa đầu não của Việt Nam, nhưng các phi vụ đó đều bị đánh bại phải rút lui về sau những tổn thất nặng nề. Và dân tộc Việt không như những dân tộc khác, Mỹ càng gây tội ác để khủng bố tinh thần thì dân Việt càng bất khuất và căm thù giặc hơn, chẳng những không sợ mà càng nuôi giấu lực lượng kháng chiến, hối thúc con em, con cháu ra bưng biền theo Mặt Trận đánh giặc.

Việt Nam không chỉ đánh bằng quân đội như những đối thủ khác của Mỹ. Việt Nam tiến hành chiến lược chiến tranh nhân dân và kết hợp nhuần nhuyễn khôn khéo với chiến thuật du kích. Đánh trên cả 3 mặt trận: Chính trị, quân sự, ngoại giao. Với phương châm tấn công “2 chân, 3 mũi, 3 vùng”. Hai chân: Chính trị và quân sự. Ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận. Ba vùng chiến lược: Nông thôn, thành thị, miền núi.

1. Nguyên nhân sâu xa

Quân đội Mỹ thắng khắp thế giới mà chỉ thua trên đất Việt chính là vì người Việt có một nền văn hóa căn bản vững chắc lâu đời, đặc biệt là văn hóa giữ nước. Văn hóa, tư tưởng này được hun đút từ lòng yêu nước truyền thống của dân Việt truyền lại từ ngàn xưa.

Quân Mỹ không hẳn thua vì không thiện chiến bằng, không dũng cảm bằng, không trung thành bằng. Cũng không thua vì du kích Việt Nam, hay thua vì các khu rừng nhiệt đới ở Đông Dương, hay vì ruồi muỗi côn trùng, vì khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt dễ gây bệnh tật cho người ngoài.

Mỹ thua Việt Nam vì dân tộc Việt Nam có một căn bản gốc rễ, cội nguồn văn hóa vững bền và điều này đã tạo ra một ý chí sắt thép cho từng người lính và người dân chống quân xâm lược. Đây là những ý chí sắt đá mà không một chương trình tâm lý chiến nào có thể hạ gục nổi.

Một số học giả, nhà nghiên cứu lâu nay tin rằng người Việt thắng Mỹ là vì khí hậu, phong thổ, vì du kích tài ba, vì các chiến sĩ biệt động liều lĩnh không sợ chết, vì tướng giỏi, vì lãnh đạo tài đức, vì thiên tài lãnh đạo chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh, vì thiên tài chỉ đạo quân sự của đại tướng Võ Nguyên Giáp…. đều không đúng hoàn toàn.

Việt Nam thắng Mỹ vì biết vận dụng lòng yêu nước của đại khối dân tộc, sử dụng vũ khí yêu nước đó chống lại quân xâm lược Mỹ. Vũ khí yêu nước đó có được chính là từ văn hóa giữ nước giữ làng sâu xa từ ngàn xưa, sau ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ một chủ đạo dân tộc sâu sắc từ cội nguồn gốc rễ ăn sâu vào tim óc từng người con đất Việt. Đó là bản sắc dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa chủ đạo cơ bản gốc rễ vốn đã mạnh mẽ, vững chắc từ ngàn xưa.

Bác Hồ đã đúc kết văn hóa đó thành câu danh ngôn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước!”

Trong Đại Hội Đảng lần thứ 2, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói kỹ hơn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

Chiến tranh Việt Nam

Chiến tranh Việt Nam

Những chiếc bánh nuôi quân

Ý nghĩa chiến thắng

Từ một đất nước bị các quân đội thực dân xâm chiếm, từ một dân tộc bị nô lệ, Việt Nam đã giành lại hoàn toàn nền độc lập dân tộc một cách trọn vẹn sau gần bao nhiêu thế kỷ chiến tranh, mất nước, chia cắt, bị mất gần nửa lãnh thổ, và trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập, thống nhất, có đầy đủ chủ quyền được quốc tế thừa nhận, trong một vận hội hòa bình yên ổn và phát triển lâu dài.

Với mùa xuân toàn thắng năm 1975, đất nước Việt Nam về cơ bản đã sạch bóng quân xâm lược, dân tộc Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi ách đô hộ thực dân cũ và mới, lành lại nỗi đau chia cắt, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.

Sự kiện này vừa đánh dấu một mốc son sáng chói trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của người Việt Nam, vừa có ý nghĩa quốc tế quan trọng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam đã góp phần chặn đứng làn sóng chiến tranh xâm lược và vào công cuộc giữ gìn hòa bình thế giới.

Mỹ đã xâm lược Việt Nam, gây xáo trộn hòa bình thế giới. Với thất bại ở Việt Nam, chủ nghĩa đế quốc ở Mỹ phải lùi một bước lớn về chiến lược, phải thay đổi phương thức bành trướng quốc tế và bá chủ thế giới để tránh một Việt Nam thứ hai.

Do thất bại của Mỹ ở Việt Nam, hòa bình chung trên thế giới được bảo đảm. Sau cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, thế giới này không còn chứng kiến những cuộc chiến tranh lớn nữa, và các cuộc chiến tranh nhỏ thì không còn xảy ra thường xuyên như trước.

Đối với thời đại, dân tộc Việt Nam là dân tộc thuộc địa đầu tiên đã đánh bại ách đô hộ và cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của Pháp, góp phần quan trọng cùng với phong trào cách mạng cộng sản và giải phóng dân tộc trên thế giới gây thoái trào cho chủ nghĩa thực dân cũ, đánh sập hệ thống thuộc địa kiểu cũ, đặc biệt với biểu tượng Điện Biên Phủ lừng danh.

Với chiến công thắng Mỹ, Việt Nam đã hoàn toàn kết liễu mọi hình thức xâm lược của chủ nghĩa thực dân cũ (trực tiếp kéo quân vào xâm lược, chỉ huy, quản lý), mở đầu việc đánh bại chủ nghĩa thực dân mới. Với chiến tích này, nhân dân Việt Nam cũng góp phần làm chuyển biến tương quan lực lượng giữa phe diều hâu hiếu chiến và phía yêu chuộng hòa bình ở Hoa Kỳ nói riêng và trên thế giới nói chung.

Sáng 30/4/1975, những người lính Mỹ cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam. Lần đầu tiên sau hơn 100 năm, Việt Nam có không còn bóng dáng quân giặc xâm lược trên lãnh thổ mình. Hơn 3 tiếng sau là sự sụp đổ đương nhiên của ngụy quyền. Thắng lợi này là kết quả của đại khối dân tộc trong cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt và lâu dài giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Mỹ. Quân đội Mỹ đã ghi thêm tên mình vào danh sách những bại binh bị Việt Nam đánh bại trong lịch sử.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhận định: Điện Biên Phủ và Mùa xuân toàn thắng 1975 là những điểm hẹn lịch sử dành cho những cuộc chiến tranh xâm lược!

1. Giải phóng hoàn toàn miền Nam

Một thuộc địa kiểu mới, một xã hội thực dân mới thì đương nhiên cần phải giải phóng khỏi tay giặc xâm lược. Nhưng bản thân xã hội trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam còn có những căn bệnh trầm kha, đưa đến nhu cầu cần phải được giải phóng, không thể không giải phóng.

Xã hội trong những vùng tạm chiếm, về văn hóa thì méo mó, thác loạn, Tây hóa, Mỹ hóa. Đời sống tinh thần lệch lạc, đạo đức băng hoại, những phụ nữ ăn mặc hở hang đứng đường chào mời lính Mỹ là những hình ảnh thường thấy trên đường phố Sài Gòn, nhất là về đêm. Thường xuyên có những cô gái trẻ nhảy sông tự tử vì tình và vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Báo chí tư nhân rẻ tiền trần trụi và công khai xúc phạm phẩm giá những nhân vật công chúng để câu khách. Truyện khiêu dâm được xuất bản bán công khai đầy ở các nhà sách.

Văn kiện của Bộ Ngoại giao Việt Nam được giải mật “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua”, do nhà xuất bản Sự Thật phát hành năm 1979, đã ước tính: Ngoài các nạn nhân bị thương vong, dị tật, di chứng từ cuộc chiến, nạn nhân chất độc hóa học, người Mỹ còn để lại một nền kinh tế tê liệt, trên 3 triệu người thất nghiệp, gần 1 triệu trẻ mồ côi, khoảng 600 ngàn gái mại dâm, trên 1 triệu bệnh nhân nghiện ma túy.

Đó là hậu quả của một thời kỳ ngoại thuộc lâu dài và buôn lậu ma túy gần 20 năm từ Diệm – Nhu và Trần Lệ Xuân cho đến Thiệu – Kỳ và Nguyễn Thị Lý, cũng như gia đình của họ. Ma túy được bày bán công khai ngoài chợ giữa ban ngày, nhất là ở Chợ Lớn.

Tiến sĩ ngành sử học Đông Nam Á Alfred W. McCoy là một sử gia có tên tuổi, ông viết cùng tác giả Cathleen B. Read trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á), do Harper & Row xuất bản năm 1972, về tình trạng buôn lậu ma túy và sự giao dịch giữa bọn tội phạm hình sự, bọn mafia quốc tế ở Đông Nam Á, đã tóm lược như sau:

Ngô Đình Nhu đã quyết định tái lập việc buôn bán ma túy để lấy tiền. Dù đa phần các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa 3 năm rồi, hàng ngàn con nghiện người Trung Hoa và người Việt Nam vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những người cầm đầu của các tổ chức có thế lực của người Hoa ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối ma túy nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút ma túy này đã hoạt động trở lại, và 5 năm sau, một phóng viên của tuần báo Time đã ước lượng ở Chợ Lớn có đến khoảng 2.500 cơ sở hút ma túy hoạt động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê các phi cơ nhỏ của Hàng không Lào, giao cho trùm tội phạm quốc tế Bonaventure “Rock” Francisci phụ trách. Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo trung tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối quan hệ mờ ám giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất hợp pháp này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ vận chuyển món hàng này về miền Nam Việt Nam hàng ngày.

Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến đến Lào với nhiệm vụ là vận chuyển thuốc phiện sống về Sài Gòn bằng phi cơ quân sự của không quân Sài Gòn. Tuy nhiên, nhiều người trong nội bộ cho rằng bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng trá hình “Sở Nghiên cứu Chính trị – Xã hội”, do CIA tài trợ, mới thật sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này.

CIA cũng là một ông “trùm ma túy”. CIA từng giao dịch ma túy với Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, và giúp máy bay cho Tưởng Giới Thạch vận chuyển và giao dịch thuốc phiện ở Myanma và Thái Lan. Trong chiến tranh Afghanistan (1979-1989), CIA đã giúp lãnh tụ Hồi giáo Gulbuddin Hekmatyar, một người chống Liên Xô, vận chuyển và giao dịch ma túy.

Ngày 13/4/1989, bản báo cáo của Hội đồng Kerry, do Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), đã kết luận rằng CIA đã dùng nguồn thu nhập từ ma túy để chi tiêu cho lực lượng đặc nhiệm Contra.

Nhà ngoại giao người Canada, Gs. Peter Dale Scott cho biết Guadalajara Cartel là đường dây buôn lậu ma túy mạnh nhất đầu thập niên 1980, chúng hoạt động thoải mái phần lớn nhờ sự bảo kê của cơ quan DFS, là một cơ quan ngoại vi của CIA do Miguel Nazar Haro phụ trách.

Vicente Zambada Niebla, con trai của Ismael Zambada García, là một trong những tay trùm ma túy lớn nhất ở Mexico, sau khi bị bắt đã khai với các luật sư của hắn rằng hắn và các cộng sự được các nhân viên người Mỹ cung cấp “giấy phép” đặc biệt để vận chuyển ma túy qua lại biên giới hai nước, để đổi lấy các tin tức tình báo nội bộ về cuộc chiến ma túy quy mô lớn đang diễn ra ở Mexico.

Ngoài ra CIA còn nhúng tay vào việc giúp đỡ giao dịch hoặc trực tiếp giao dịch ma túy ở Panama sau khi gần 3 vạn quân Mỹ tấn công nước này vào năm 1989. CIA còn từng có một thời gian dài dùng ma túy chiêu dụ lực lượng Vệ binh Quốc gia Venezuela để đổi lấy các thông tin tình báo. Việc này đến năm 1996 mới được đưa ra công luận.

Chiến Tranh Việt Nam

Một quán bar ở Sài Gòn dưới thời Mỹ (1969). Năm 1969 là thời điểm quân Mỹ tràn ngập miền Nam Việt Nam đông đảo nhất, lên đến hơn 55 vạn quân. Trong năm này binh lính Mỹ ở Sài Gòn ăn xài khoảng 30 triệu USD mỗi tháng (tương đương 200 triệu USD ngày nay). Ngoài các viện trợ kinh tế dồi dào thì khoản tiển khổng lồ này cũng góp phần làm “thay đổi bộ mặt” của “Hòn ngọc Viễn Đông”, tạo ra vỏ bọc hào nhoáng phồn vinh giả tạo.

Hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee trong sách The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy), do Cemetery Dance xuất bản năm 1999, đã cho biết như sau:

Năm 1958, khi Diệm-Nhu tái lập hệ thống lưu thông thuốc phiện về Sài Gòn, Bonaventure Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về miền Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng.

Sau đó, Francisci dự tính sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng chục ngàn bệnh nhân nghiện ma túy ở Sài Gòn. Trong khi việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, ngày càng phức tạp và khó khăn. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của ông ta.

Sau đó Francisci và Nhu đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana.

Về căn bản, các tập đoàn buôn lậu ma túy, mafia Mỹ, và ngụy quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành các đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Tiền tỷ chảy vào túi các bên liên quan.

Trong bài phê bình “Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975” của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, đã phê phán gay gắt:

“Trong thời Chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đặng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là có ‘cháy nhà mới lòi mặt chuột’ Nguyễn văn Thiệu.

Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký ” Việt Nam máu lửa quê hương tôi”, cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4/1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sỉ và danh dự của người lãnh đạo.”

Ngoài sự tê liệt vì tệ nạn buôn lậu ma túy, xã hội trong những vùng tạm chiếm còn bị tê liệt bởi lối sống sa đọa và đồi trụy. Khoảng 6 triệu người Mỹ và gần 60 vạn quân viễn chinh Mỹ ở trong vùng tạm chiếm, đã tạo ra các nhu cầu và văn hóa “tiêu dùng” mới. Để “giúp vui” cho quân Mỹ, Mỹ-Thiệu cho mở cửa hàng loạt phòng tắm hơi, hộp đêm, nhất là ổ mại dâm, nhan nhản khắp Sài Gòn, đặc biệt là xung quanh các cư xá của người Mỹ. Thị trường mại dâm ở Sài Gòn trước năm 1975 được người dân quen miệng gọi là “chợ heo”, được Mỹ-Thiệu công khai hóa và hợp pháp hóa. Năm 1966, sau khi từ Sài Gòn về Mỹ, thượng nghị sĩ William Fulbright nhận xét: “Mỹ đã biến Sài Gòn thành một ổ mại dâm”.

Lối sống đồi trụy, thác loạn, không chỉ là hậu quả của sự có mặt của hàng chục vạn lính viễn chinh nước ngoài trong túi nhiều đô la Mỹ, mà theo một số người, nó còn nằm trong chủ trương ngầm nhằm đồi trụy hóa thanh niên miền Nam, làm cho giới trẻ quên đi hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược, không màng tới nghĩa vụ đối với dân tộc.

Từ đó xuất hiện ở Sài Gòn một dòng văn học khiêu dâm trong đó các tác giả chuyên khai thác thị hiếu thấp hèn của người đọc, đề cao “phần con” hơn “phần người”, công khai cổ vũ cho những lối sống bệnh hoạn, biến thái. Bên cạnh những “phim con heo” (các danh từ “chợ heo”, “phim heo” này đều có nguồn gốc từ đây) bán công khai ngoài phố, báo chuyên in hình phụ nữ khỏa thân (Playboy, Penthouse, Nude….) bày bán công khai trên vỉa hè các đường Lê Lợi, Công Lý…. ở ngay trung tâm thành phố, là những tiểu thuyết “người lớn” của những “chuyên gia” viết truyện khiêu dâm như Chu Tử, Lê Xuyên, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thụy Vũ….

Những vấn đề nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống văn hóa – tinh thần của người dân. Sự sa đọa, trụy lạc trong xã hội đã gây ra nhiều thảm cảnh gia đình và hạnh phúc đổ vỡ, nhiều câu chuyện bi đát thương tâm. Qua các báo hằng ngày, không ngày nào là không có những vụ án mạng vì tình, những vụ tự tử, nhảy lầu, nhảy sông, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vì giành nhau một người đẹp, kể cả trong quân đội ở các chức vị cao nhất (một ví dụ là “phó tổng thống” Nguyễn Cao Kỳ thời đó, do “nổi tiếng” với thái độ ngang ngược chỉa súng cướp bồ nhí của đàn em nên bị mọi người gọi là “Kỳ Cao Bồi”).

Tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968 (dịch ý: Quá trình phát minh Nam Việt Nam: Hoa Kỳ và quá trình xây dựng Nhà nước Nam Việt Nam, 1954-1968), do NXB Đại học Cambridge (Anh) phát hành năm 2008, đã cho biết: “Chiến tranh cũng làm 100.000 thường dân thương vong mỗi năm. Dịch bệnh tăng vọt; dịch tả tăng từ hàng trăm lên đến 20.000 vụ. Khoảng từ 30.000 đến 50.000 người cụt chân tay chờ được lắp chân giả. Và chính phủ Sài Gòn chỉ dành chưa đầy 1% ngân sách cho dịch vụ y tế.”

Có lẽ từ những hiện thực trên mà sử gia Stanley I. Kutler trong Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do Simon & Schuster McMillan xuất bản năm 1996, đây là cuốn sách viết theo quan điểm và tuyên truyền chính thức, chính thống và công khai của chính phủ Mỹ, đã phải viết về xã hội dưới thời Mỹ-Thiệu như sau:

“Đối với hầu hết người dân trong các thành phố, đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn. Vào năm 1972, có vào khoảng 800 ngàn trẻ em mồ côi lang thang trên các vỉa hè trong các đường phố ở Sài Gòn và một số thành phố khác, sống bằng nghề ăn mày, đánh giày, rửa xe, móc túi và dẫn khách làng chơi về cho chính chị gái và mẹ của chúng. Có vào khoảng 500 ngàn gái mại dâm và gái bán ba, trong đó có nhiều người là bà vợ của anh em quân nhân trong quân đội Nam Việt Nam. Họ phải làm cái việc ô nhục này để phụ cấp đồng lương chết đói của ông chồng không đủ nuôi cho một người. Ngoài ra, lại còn có khoảng 2 đến 3 triệu người, trong đó có những người già cả hay thương phế binh của quân đội Nam Việt Nam không thể nào tìm được công ăn việc làm. Vào năm 1974, tình trạng đói đã lan rộng ra nhiều nơi ở miền Nam. Theo cuộc thăm dò của anh em sinh viên Ca-tô thì ngay trong khu vực giàu có nhất trong thành phố Sàigòn, chỉ có 1/5 tổng số gia đình có đủ ăn, một nửa tổng số gia đình cho là có thể lo được mỗi ngày một bữa cơm và một bữa cháo bằng thứ gạo rẻ tiền nhất. Các gia đình còn lại đều đói. Đói và thất nghiệp đưa đến tội ác, tự tử và biểu tình trong khắp các vùng do chính quyền Nam Việt Nam quản lý.”

Chiến tranh Việt Nam

Banner quảng cáo “Đại nhạc hội xuân vùng 4 chiến thuật” ở Sài Gòn (1971).

Tóm lại, miền Nam đã được giải phóng khỏi những gì? Trước hết là khỏi sự chiếm đóng của quân đội Mỹ, sự thao túng, lũng đoạn, ảnh hưởng của giặc ngoại xâm, ách đô hộ thực dân mới, và các tội ác chiến tranh.

Miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn, không còn những ngày đêm vùng vẫy trong những nhà tù lớn được gọi là “Ấp chiến lược”, không còn những ngày đêm bị càn bị quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố trắng, tàn sát, hủy diệt hàng loạt và những tội ác chiến tranh to lớn mà nhiều người coi là những tội ác diệt chủng, chống nhân loại.

Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, thảm sát, “ba sạch” (phá sạch, giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết. Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương rồi xả súng. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, “lê máy chém” khắp nơi.

Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008: “Phần lớn trong nhóm chúng tôi không coi người Việt là loài người.” Không còn những thảm kịch hành hạ, tra tấn, cắt bỏ các bộ phận cơ thể phụ nữ, trẻ em. Không còn ai bị đày ra Côn Đảo, Phú Quốc, bị nhốt trong những “chuồng bò”, “chuồng cọp”. Bom đạn và chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất Việt, người Việt.

Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, giết chóc, “dội bom nhầm” lên một bộ phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết “tổng thống” ngụy. Không còn những lần người Mỹ thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào đất chết. Không còn cảnh tượng lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con và người thân của lính ngụy. Không còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son kỹ lưỡng với những chiếc váy không thể ngắn hơn đứng đầy đường công khai giữa ban ngày chào mời lính Mỹ.

Không còn cảnh những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai mọc lên như nấm, gần 100 vạn quân viễn chinh tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra gì, cướp – hiếp – giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên quyền con người.

Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai và cô nhi của gần 6 triệu người Mỹ, khiến sau này hình thành một diện xuất cảnh chưa từng có trên thế giới là “diện con lai”.

Nhiều trẻ em con lai Mỹ được lính Mỹ đưa về Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975.

Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, súng đạn. Những sân trường miền Nam không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên miền Nam ngã xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.

Tóm lại là không còn hàng trăm cuộc thảm sát ở miền Nam Việt Nam, không còn hàng ngàn tội ác của quân xâm lược. Không còn những mảnh đời đau khổ, trong đó có cả lính ngụy và người thân của họ. Không còn cảnh người Mỹ hoành hành khắp miền Nam, muốn giết ai thì giết, từ phụ nữ trẻ em cụ già cho đến “tổng thống”.

2. Thống nhất đất nước

Kể từ thời Nam – Bắc triều, rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, đất nước Việt Nam chưa bao giờ có được sự thống nhất thật sự và lâu dài. Trong thời Nguyễn sau này cũng xảy ra cuộc nổi dậy quy mô lớn của tướng Lê Văn Khôi đánh chiếm Nam Kỳ lục tỉnh ròng rã hai năm, biến Nam Kỳ lục tỉnh trở thành lãnh địa riêng của ông ta và ly khai với triều Nguyễn. Quanh đó là hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân khác chống nhà Nguyễn, nhiều địa bàn trở thành nơi cát cứ ly khai của các thế lực thổ hào địa phương, xưng hùng một cõi.

Khi thực dân Pháp cướp nước ta, họ chia Đại Nam ra 3 kỳ, 3 xứ riêng lẻ (Nam Kỳ – Cochinchine, Trung Kỳ – Annam, Bắc Kỳ – Tonkin) với 3 chế độ cai trị khác biệt, phục vụ cho chính sách “chia để trị”, “dùng người Việt trị người Việt”.

Về danh nghĩa nhà nước, thì Nam Kỳ là nơi mà người Pháp coi là “xứ thuộc địa” của họ từ hiệp ước nhượng 3 tỉnh Nam Kỳ của Tự Đức, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp, và sau đó họ hành quân chiếm thêm 3 tỉnh với “lý do” nhà Nguyễn không tôn trọng hiệp định hòa bình đã ký, dung túng nghĩa quân…. Còn Bắc Kỳ và Trung Kỳ, về danh nghĩa, được người Pháp gọi là “xứ bảo hộ” cho một vương triều “độc lập” của An Nam. Như vậy, dưới thời Pháp thuộc, nước Việt vừa bị chia 2, vừa bị chia 3. Chia 2 về danh nghĩa nhà nước. Chia 3 về chế độ cai trị.

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm Pháp thuộc và mấy năm bị quân Nhật xâm lược. Chính phủ Việt Nam tuyên bố độc lập và thống nhất, xóa bỏ chế độ Bắc-Trung-Nam của thực dân và phát xít.

Tuy nhiên, sau đó quân Tàu Tưởng kéo vào miền Bắc, liên quân Anh – Pháp kéo vào Nam, sau đó thực dân Pháp quay lại tái chiếm thuộc địa, đại nghiệp thống nhất đất nước bị các thế lực đầy tham vọng từ nước ngoài ngăn trở. Quân dân Việt Nam trên cả nước phải bước vào cuộc chiến tranh khốc liệt chống quân Pháp xâm lược.

Sau khi hiệp định Genève 1954 được ký kết, đại nghiệp thống nhất Tổ quốc lại phải chờ hai năm. Nhưng Mỹ, vốn trong chiến tranh Pháp – Việt chính là kẻ đứng sau yểm trợ thực dân Pháp, đã từ hậu trường nhảy ra phía trước sân khấu, từng bước hất cẳng Pháp ra khỏi võ đài chính trị ở miền Nam Việt Nam.

Mỹ-ngụy đã phủ nhận hiệp định Genève về Đông Dương và dùng bạo lực ngăn cản việc thi hành hiệp định, với ý đồ chia cắt đất nước, canh giữ sông Bến Hải, ngăn cầu Hiền Lương ở vĩ tuyến 17, chia cắt không cho miền Nam và miền Bắc gặp nhau, gây khó khăn một cách có hệ thống cho việc giao lưu, qua lại, liên lạc Bắc-Nam.

Mỹ-ngụy chia cắt không cho nhân dân hai miền liên hệ. Họ chia cắt, gom dân, đàn áp, bỏ tù, bắn giết, không cho lãnh đạo miền Bắc vào miền Nam, không cho Đảng bộ miền Nam liên hệ ra Bắc. Họ xây dựng một loạt đồn bốt cảnh sát rải dọc bờ Nam sông Bến Hải, kéo dài từ Cửa Tùng đến Hói Cụ; với đội quân thám báo, mật vụ nhằm kìm kẹp, ngăn cản mọi sự quan hệ, qua lại của người dân đôi bờ.

Biết bao nhiêu nỗi khổ, nỗi nhớ nhung ray rứt người thân mà người dân đôi bờ Hiền Lương – Bến Hải quanh vĩ tuyến 17 phải chịu đựng. Nhiều gia đình ly tán, chồng Bắc, vợ Nam. Những nỗi nhớ, nỗi niềm này còn được phản ảnh qua nghệ thuật. Đã có nhiều thơ văn, thi ca nói lên nỗi đau chia cắt, như “Bên ven bờ Hiền Lương, chiều nay ra đứng trông về…. ôi mắt đượm tình quê…. mắt đượm tình quê….” (bài hát Câu hò bên bờ Hiền Lương – nhạc sĩ Hoàng Hiệp), “Cách nhau chỉ một mái chèo – Mà đi trăm núi vạn đèo đến đây.” (nhà thơ Thanh Hải), hay “Cách một dòng sông mà đó thương đây nhớ – Cách một nhịp cầu mà duyên nợ cách xa.” (dân gian).

Vào giai đoạn 1954-1964, ở đôi bờ Bến Hải đã được phát thanh lên một giọng ca ngọt ngào, ấm áp của NSND Châu Loan với những bài thơ, bài hò do bà thể hiện rất truyền cảm:

“Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Thiếp xa chàng ngày đợi đêm trông
Trong đồn chàng có nhớ thiếp không?
Ngoài này thiếp vẫn chờ mong chàng về.”

Bộ đội miền Nam rời bỏ quê hương, ruộng vườn, tạm biệt người thân để tập kết ra Bắc theo hiệp định Genève 1954. Có thể thấy gần như tất cả những người sắp tạm biệt nhau ở hình trên không có người nào buồn bã, ai nấy đều cho rằng chỉ tạm thời xa nhau trong 2 năm, tới năm 1956 đất nước thống nhất họ sẽ về nhà. Không ai ngờ cuộc chia ly 2 năm trở thành cuộc chia ly 21 năm.

Trong phong trào đấu tranh của Đảng bộ và người dân miền Nam đòi tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo hiệp định Genève 1954, với ý đồ chia cắt lâu dài Việt Nam, Mỹ-ngụy đã gây ra một “cuộc chiến màu sắc”: Giữa cầu Hiền Lương có một vạch trắng kẻ ngang, rộng 1cm được dùng làm ranh giới. Lính ngụy chủ động sơn một nửa cầu phía nam thành màu xanh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa liền sơn tiếp màu xanh một nửa cầu còn lại. Sau lính ngụy lại chuyển sang màu nâu thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng sơn lại màu nâu. Cứ như thế, cầu Hiền Lương luôn thay đổi màu sắc, hễ lính ngụy sơn một màu khác đi để tạo ra hai màu khác biệt thì ngay lập tức Quân đội Nhân dân Việt Nam liền sơn lại cho giống. Hành động sơn màu cầu là một hình thức đấu tranh chính trị nhằm nói lên khát vọng thống nhất của dân tộc Việt Nam đối với người Mỹ và nhân dân thế giới.

Từ đó, với tinh thần “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước.” và “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.” của Bác Hồ, những con cháu của Bác đã tiếp nối cuộc kháng chiến chống Pháp, cố gắng một lần nữa thực hiện cuộc trường chinh gian khổ, kéo dài hơn 20 năm, để đánh đuổi xâm lăng và thống nhất nước nhà. Cuối cùng vào năm 1975, cây cầu chung một màu xanh thống nhất.

Ngày nay, ở bờ Nam sông Bến Hải có một tượng đài với tên gọi: “Khát vọng thống nhất non sông”. Tượng đài có hình dáng của một thiếu phụ đang đứng ở bờ Nam sông Bến Hải nhìn về phía Bắc để tưởng nhớ những ngày tháng đau thương khi họ không thể vượt sông để gặp chồng con và gia đình.

Trải qua bao nhiêu gian khổ, đại nghiệp thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam cuối cùng cũng đã hoàn thành vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã dẫn đến kết quả chấm dứt sự chia cắt đất nước của ngoại bang, đưa đến việc hoàn toàn thống nhất Việt Nam về hành chính, xã hội, địa lý, dân cư.

Thống nhất đây là thống nhất tất cả: Thống nhất vùng giải phóng và vùng tạm chiếm ở miền Nam, xóa đi các “mảnh da báo”, thống nhất Bắc Bộ và Nam Bộ, thống nhất ba miền Bắc-Trung-Nam, thống nhất toàn bộ lãnh thổ. Về phương diện pháp lý quốc tế, thì năm 1976 họp Quốc hội là thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thành 1 quốc gia: Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Thiếu Long

—————————————————————-

Tài liệu tham khảo

Việt Nam:

  • Hồ Chí Minh toàn tập – Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2000)
  • Hồi ức: Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2000)
  • Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tội ác chiến tranh xâm lược – Nguyễn Quốc Hùng – Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh & Nhà xuất bản Trẻ (2003)
  • Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam – Gíáo sư Phan Huy Lê, Nhà nghiên cứu sử học Dương Trung Quốc, Trần Xuân Thanh – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2010)
  • Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 (tập 1-8) – Trung tướng Giáo sư Hoàng Phương, Thượng tá Nguyễn Văn Minh, Đại tá Hoàng Dũng, Đại tá Trần Bưởi, Đại tá Đỗ Xuân Huy, Đại tá Tiến sĩ Hồ Khang, Trung tá Nguyễn Huy Thục, Trung tá Nguyễn Xuân Năng, Trung tướng Nguyễn Đình Ước, Thượng tá Ngô Văn Bính, Thượng tá Trần Tiến Hoạt, Đại tá Tiến sĩ Trịnh Vương Hồng, Trung úy Lê Quang Lạng, Đại tá Nguyễn Như Minh, Đại úy Nguyễn Văn Quyền, Thiếu tướng Tiến sĩ Phạm Văn Thạch – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995-2008)
  • Quân và dân miền Nam đấu tranh phòng chống vũ khí hóa học của Mỹ trong những năm 1961-1972 – Tiến sĩ Nguyễn Đức Hòa – Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh xuất bản (2009)
  • Cuộc Đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam 1959-1960 – Nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Đại tá Lê Hồng Lĩnh – Nhà xuất bản Đà Nẵng (2006)
  • Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Bến Tre – Thiếu tá Vũ Bình, Đại úy Phạm Hoài Bão, Thượng úy Phạm Ngọc Tuấn – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre xuất bản (1985)
  • Mậu Thân 1968, cuộc đối chiến lịch sử – Nguyễn Phương Tân, Lê Ngọc Tú – Nhà xuất bản Lao Động (2008)
  • 5 Đường mòn Hồ Chí Minh – Đặng Phong – Nhà xuất bản Tri Thức & Phương Nam Books (2008)
  • Bộ Tham mưu Hải quân – Biên niên sự kiện (1959-2004) – Nguyễn Văn Đấu, Dương Thảo, Đặng Văn Tới – Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân (2004)
  • Lịch sử Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định kháng chiến (1945-1975) – Trần Hải Phụng, Lưu Phương Thanh, Hồ Sơn Đài, Trần Phấn Chấn – Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh (1994)
  • Khu VIII – Trung Nam Bộ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) – Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Văn Triệu, Lê Minh Đức, Phạm Văn Kim, Cao Văn Sáu, Đặng Văn Tố, Nguyễn Xuân An – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2001)
  • Khu VI kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 – Đại tá Trần Dương, Đại tá Võ Đức Nhi, Thiếu tá Nguyễn Đức Tấn – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2002)
  • Bài tham luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong hội thảo khoa học “Đại thắng mùa Xuân 1975 – Bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam” do Bộ Quốc phòng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương tổ chức ngày 14 và 15/4/2005, ghi lại trên Tạp chí Xưa & Nay số 234 (2005)
  • Phim tài liệu “Đồng khởi – Bến tre” – Đạo diễn Lê Phong Lan – Công ty TNHH Truyền thông Đồng đội sản xuất & Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất và phát hành (2009)
  • Phim tài liệu “Lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh anh hùng” – Đạo diễn Hồ Minh Đức – Bộ tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, Hãng phim Truyền Hình Thành phố Hồ Chí Minh & Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh sản xuất và phát hành (2011)
  • Phim tài liệu “Nơi huyền thoại bắt đầu” – Đạo diễn Thanh Lan – Trung tâm phim tài liệu phóng sự Đài truyền hình Việt Nam & Đài truyền hình Việt Nam sản xuất và phát hành (2012)
  • Phim tài liệu “Mậu Thân 1968” – Đạo diễn Lê Phong Lan – Hãng phim truyền hình Bản Sắc Việt & Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất và phát hành (2012)

Hoa Kỳ và quốc tế:

  • General Vo Nguyen Giap and the Mysterious Evolution of the Plan for the 1968 Tet Offensive (Tướng Võ Nguyên Giáp và tiến trình bí mật của kế hoạch Tết Mậu Thân 1968) – Nhà sử học, Việt Nam học Merle L. Pribbenow II – Vietnam study department Đại học California xuất bản (2008)
  • Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950-1975 – George C. Herring (Phạm Ngọc Thạch dịch) – Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2004)
  • Lyndon Johnson’s War: The Road to Stalemate (Cuộc chiến của Lyndon Johnson: Đường đi đến bế tắc) – Giáo sư Larry Berman – W. W. Norton & Company (1991)
  • The White House Years (Những năm tháng ở Nhà Trắng) – Cựu ngoại trưởng Henry Kissinger – Simon & Schuster (2011)
  • A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân) – Đại tướng William Westmoreland – Doubleday (1976)
  • Kill Anything That Moves: U.S. War Crimes And Atrocities In Vietnam, 1965-1973 (Giết bất cứ vật gì chuyển động: Tội ác chiến tranh hung bạo của Mỹ ở Việt Nam) – Nhà sử học kiêm nhà báo Nick Turse – Nhà xuất bản Đại học Columbia (2005)
  • The United States and Biological Warfare: Secrets from the Early Cold War and Korea (Hoa Kỳ và Chiến tranh hóa học: Bí mật từ đầu Chiến tranh lạnh và Triều Tiên) – Stephen Endicott, Edward Hagermann – Nhà xuất bản Đại học Indiana (1998)
  • The War Behind Me: Vietnam Veterans Confront the Truth About U.S. War Crimes (Cuộc chiến sau lưng tôi: Cựu binh Chiến tranh Việt Nam chất vấn sự thật về tội ác chiến tranh Hoa Kỳ) – Deborah Nelson – Basic Books (2008)
  • America in Vietnam: a documentary history (Hoa Kỳ ở Việt Nam: một tài liệu lịch sử) – William Appleman Williams, Lloyd C. Gardner, Walter LaFeber – W. W. Norton & Company (1989)
  • Dictionary of the Vietnam War (Tự điển thuật ngữ về Chiến tranh Việt Nam) – nhà sử học James Olson, Greenwood Press (1988)
  • Crimes of War: What the Public Should Know (Tội ác chiến tranh: Những gì công chúng nên biết) – Lewis M. Simmons – Roy Gutman xuất bản (1999)
  • “Guide to the Vietnam War” (Hướng dẫn kiến thức cơ bản Chiến tranh Việt Nam) – David L. Anderson – Nhà xuất bản Columbia (2004)
  • Những bí mật về Chiến tranh Việt Nam – Tiến sĩ Daniel Ellsberg (Tĩnh Hà, Kiều Oanh dịch) – Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2006)
  • Sự lừa dối hào nhoáng – Nhà báo Neil Sheehan (Đoàn Doãn dịch) – Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2003)
  • 40 ngày sống với đối phương – Richard Dudman (Trần Ngọc Châu, Dương Thủy dịch) – Nhà xuất bản Trẻ (2005)
  • Những gì tôi thấy ở Việt Nam – Alain Wasmes (Nguyễn Huy Cầu dịch) – Nhà xuất bản Công an Nhân dân (2004)
  • Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam – Cựu Bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara (Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga dịch) – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1995)
  • The Palace File (Hồ sơ mật Dinh Độc Lập) – Nguyễn Tiến Hưng – Harper & Row Publishers (1986)
  • The Vietnam War in American memory: veterans, memorials, and the politics of healing (Chiến tranh Việt Nam trong ký ức người Mỹ: cựu binh, tưởng niệm, và yếu tố chính trị của sự lành lại vết thương) – Patrick Hagopian – Nhà xuất bản Đại học Massachusetts (2009)
  • Vietnam and Other American Fantasies (Việt Nam và các ảo tưởng khác của người Mỹ) – Bruce Franklin – Nhà xuất bản Massachusetts (2001)
  • Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968 (dịch ý: Quá trình phát minh Nam Việt Nam: Hoa Kỳ và quá trình xây dựng nhà nước Nam Việt Nam, 1954-1968) – Tiến sĩ James Carter – Nhà xuất bản Đại học Cambridge (2008)
  • Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Một tưởng nhớ về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc) – Tiến sĩ Daniel Ellsberg – Nhà xuất bản Viking (2002)
  • Understanding Power: The Indispensable Chomsky (Nhận diện quyền lực: Chomsky và những điều không thể bỏ qua) – Mitchell Schoeffel, Peter Schoeffel, John Schoeffel – Nhà xuất bản Vintage (2003)
  • The Vietnam War and American Culture (Chiến tranh Việt Nam và văn hóa Mỹ) – John Carlos Rowe, Rick Berg – Nhà xuất bản Đại học Columbia (1991)
  • Historical Dictionary of the 1970s (Tự điển lịch sử của thập niên 1970) – Giáo sư sử học James Stuart Olson – Nhà xuất bản Greenwood (1999)
  • Fire in the Lake: The Vietnamese and the Americans in Vietnam (Ngọn lửa trên sông: Người Việt và người Mỹ ở Việt Nam) – Nhà báo Frances FitzGerald – Nhà xuất bản Back Bay Books (2002)
  • Ngày tàn ngụy chúa – Marshal Brement (Bạch Phương dịch) – Nhà xuất bản Thanh Niên (2011)
  • Vietnam War Era: A Personal Journey (Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam: Một hành trình riêng) – Giáo sư sử học Bruce Solheim – Nhà xuất bản Đại học Nebraska (2008)
  • Anything But the Truth: the Credibility Gap-How the News is Managed in Washington (Tất cả ngoài sự thật: Khoảng cách tin cậy về cách quản lý thông tin ở Washington) – Erwin Knoll, William McGaffin – G. P. Putnam’s Sons (1968)
  • The United States in Vietnam: An analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam (Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam) – Nhà chính trị học George McTurnan Kahin, John W. Lewis – Delta Books (1967)
  • Vietnam, a History (Việt Nam, một Lịch sử) – Nhà sử học Stanley Karnow – Nhà xuất bản Edition King (1983)
  • The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á) – Tiến sĩ sử học Alfred W. McCoy, Cathleen B. Read – Harper & Row (1972)
  • The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy) – Bradley S. O’ Leary, Edward Lee – Cemetery Dance (1999)
  • Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) – Sử gia Stanley Kutler – Simon & Schuster McMillan xuất bản (1996)
  • Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) – Đại tá Tiến sĩ Spencer C. Tucker – ABC-CLIO (2000)
  • The secret team: The CIA and its allies in control of the United States and the world (Đội ngũ bí mật: CIA và các đồng minh kiểm soát Hoa Kỳ và thế giới) – Đại tá Fletcher Prouty – Prentice-Hall (1973)
  • Anatomy of a War: Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải phẫu một cuộc chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện đại) – Gabriel Kolko – Pantheon Books (1985)
  • Foreign Aid, War, and Economic Development: South Vietnam, 1955-1975 (Viện trợ nước ngoài, Chiến tranh, và Phát triển kinh tế: Nam Việt Nam, 1955-1975) – Nhà kinh tế học Douglas Dacy – Đại học Cambridge (2005)
  • Death Zones and Darling Spies, seven years of Vietnam War reporting (Tử địa và các điệp viên đáng yêu, bảy năm làm phóng sự về Chiến tranh Việt Nam) – Beverly Deepe Keever – Nhà xuất bản Đại học Nebraska (2013)
  • Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Cuộc chiến thật sự của Mỹ ở Việt Nam) – Nhà sử học kiêm nhà báo Nick Turse – Metropolitan Books (2013)
  • U.S. Marines in Vietnam: The Bitter End, 1973-1975 (Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam: Sự kết thúc cay đắng, 1973-1975) – George R. Dunham – Nhà xuất bản Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ (1990)
  • Hồ sơ SSN/0802 USMC, bản báo cáo After Action Report 17/4/1975 – 7/5/1975 – Thiếu tá James H. Kean
  • Cuộc phỏng vấn Trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Không quân Quân khu Thành Đô, Trung Quốc trên tạp chí Khoa Học Quân Sự Không Quân (2010)
  • Thời báo New York, phát hành ngày 8/6/1963
  • Tuần báo Time, phát hành ngày 8/6/1964
  • Bưu báo Washington, phát hành ngày 8/6/1964
  • Phim tài liệu “Vietnam: The 10,000 Day War” (Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày) – Đạo diễn Michael Maclear – Tập đoàn Truyền thông Canada (CBC) sản xuất (1980)
  • Phim tài liệu “Vietnam: A Television History” (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình) – Đài truyền hình PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne–2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành (1983)
  • Phim tài liệu “Việt Nam Thống Nhất” – Đạo diễn Yamamoto Satsuo, Toma Hiroichi, Yuki Yoshihiro, Suzuki Toshikazu – Hiệp hội Phát hình Nhật Bản Nippon Hōsō Kyōkai (NHK) sản xuất (1975)
  • Phim tài liệu “The Cu Chi Tunnels” (Địa đạo Củ Chi) – Đạo diễn Mickey Grant – Mickey Grant & Stan Cottrell sản xuất (1986)
  • Tài liệu Internet
  • Từ điển Bách khoa thư Việt Nam
  • Bách khoa toàn thư mở
  • Bách khoa thư Farlex
  • Đại tự điển Việt Nam
  • Bách khoa Tri thức Việt Nam
  • Những ý kiến, chỉ dẫn, giới thiệu thông tin của anh chị em trong blog

————————————————————-

Cùng một bài viết:

Kỳ 1: Bản chất một cuộc xâm lược không thể biện minh
Kỳ 2: Con đường gian nan đến ngày toàn thắng
Kỳ 3: 30/4/1975, ngày toàn thắng của dân tộc Việt Nam
Kỳ 4: Tổng kết Chiến tranh Việt Nam

Cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam – L.V. Kotov

Cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam

L.V. Kotov

Chính giới Mỹ đã thực hiện các hành động quân sự tại Việt Nam trong năm 1964-65, sử dụng lực lượng vũ trang để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam Việt Nam, cản trở việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam, và để duy trì miền Nam Việt Nam làm một căn cứ quân sự và chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á. Đây là xung đột vũ trang lớn nhất trong giai đoạn sau Thế chiến II, mang một mối đe dọa đối với nền hòa bình trên toàn thế giới. Cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam là một hành động vi phạm luật pháp quốc tế và các thỏa thuận quốc tế, và đạp lên Hiến chương Liên Hiệp Quốc.

Mỹ bắt đầu can thiệp vào Việt Nam sớm nhất là trong cuộc chiến tranh nhân dân của Việt Nam, kháng chiến từ năm 1945 đến 1954 chống thực dân Pháp. Sau khi hòa bình được thành lập trên bán đảo Đông Dương phù hợp với hiệp định Geneva năm 1954, Mỹ bắt đầu tăng tốc kế hoạch thâm nhập vào Đông Nam Á. Ngăn cản việc thực hiện các điều khoản cơ bản trong hiệp định Geneva về Việt Nam đã được quốc tế công nhận về sự độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, ngăn cản liên lạc giữa hai miền, biến các nỗ lực tổng tuyển cử vào năm 1956 thống nhất đất nước trở thành vô ích.

Nam phần Việt Nam đã được bao gồm trong chiến lược “ngăn chặn toàn cầu” của Hoa Kỳ vào mùa thu năm 1954 theo hình thức hiếu chiến của khối SEATO. Bắt đầu từ tháng 1 năm 1955, Mỹ bắt đầu cung cấp quân sự trực tiếp cho chế độ Sài Gòn, vi phạm điều khoản cấm các nhân viên và vũ khí quân sự nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian hiệp định Geneva còn hiệu lực, họ gởi các cố vấn đến miền Nam Việt Nam, tổ chức và trang bị quân đội Sài Gòn với vũ khí hiện đại, và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Để đàn áp phong trào giải phóng ở miền Nam Việt Nam và duy trì sự chia cắt Việt Nam, Hoa Kỳ đã bắt đầu bằng kế hoạch “chiến tranh đặc biệt”, bao gồm kế hoạch Staley-Taylor (1961), với mục tiêu bình định miền Nam Việt Nam, thành phần tham chiến chủ yếu do các lực lượng quân sự của chế độ Sài Gòn đảm nhiệm, trong vòng 18 tháng. Các nhóm nhân viên quân sự Mỹ đứng đầu là tướng Harkins đã ở Sài Gòn vào năm 1961 để chỉ đạo các hành động quân sự chống lại các lực lượng yêu nước của miền Nam Việt Nam. Năm 1962, lệnh viện trợ quân sự của Mỹ được thông qua. Quân nhân Mỹ bắt đầu tham gia trực tiếp các hoạt động quân sự chống lại các lực lượng yêu nước. Đến giữa năm 1964, đã có khoảng 25.000 quân nhân Mỹ ở miền Nam Việt Nam và hơn 350.000 lính trong quân đội Sài Gòn. Tuy nhiên, chính sách của Mỹ “chiến tranh đặc biệt” đã thất bại. Quân đội Sài Gòn, được trang bị với vũ khí Mỹ và chỉ dẫn của các cố vấn Mỹ, đã cho thấy rằng họ không đủ sức để chịu nổi những cú đánh của các lực lượng yêu nước – đó là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, được tổ chức vào năm 1961. Các hành động phản kháng của người lao động, sinh viên, và trí thức đã diễn ra không ngừng trong các thành phố ở miền Nam Việt Nam, các Phật tử cũng tham gia tích cực trong cuộc đấu tranh giải phóng. Những nhân vật miền Nam yêu nước đã thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong tháng 12 năm 1960 và được sự hỗ trợ bởi số đông áp đảo của miền Nam, đã giải phóng khoảng 3/4 lãnh thổ của Việt Nam, mở rộng vùng giải phóng, chủ yếu ở nông thôn.

Trong nỗ lực của mình để giữ lại các chế độ Sài Gòn và duy trì miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của họ, Mỹ đã buộc phải xem xét lại chiến lược của mình tại Việt Nam. Sau hội nghị cấp cao quân sự ở Sài Gòn (tháng 3 năm 1964) và Honolulu (tháng 5 năm 1964), giới cầm quyền Mỹ đã thông qua một quyết định vào mùa hè năm 1964, mở rộng các hành động quân sự chống lại nhà nước xã hội chủ nghĩa có chủ quyền, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mà họ tin rằng sự hỗ trợ của VNDCCH đối với miền Nam Việt Nam đã có một ảnh hưởng quyết định trong quá trình hành động quân sự ở miền Nam Việt Nam. Trong tháng 7 năm 1964, Mỹ đã gởi các tàu chiến của Hạm đội 7 đến Vịnh Bắc Bộ để tuần tra bờ biển của miền Bắc Việt Nam. Họ xâm phạm lãnh hải của VNDCCH, kích động những cuộc xung đột vũ trang. Vào đầu tháng 8 năm 1964, hạm đội và lực lượng không quân của Mỹ bắn phá và bóc vỏ một số mục tiêu quân sự và giải quyết khu vực trên bờ biển của VNDCCH mà không có một tuyên bố chiến tranh. Ngày 6-7 tháng 8, Quốc hội Mỹ đã thông qua một nghị quyết chung (gọi là nghị quyết Tonkin) trừng phạt các hành động của đối phương, cho tổng thống Johnson quyền sử dụng lực lượng vũ trang Mỹ ở Đông Nam Á. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác mạnh mẽ lên án các hành động khiêu khích quân sự của Mỹ chống VNDCCH, dư luận thế giới lên án đây là những hành động xâm lược vô cớ của Mỹ.

Vào ngày 7 tháng 2 năm 1965, các máy bay phản lực của Mỹ dựa trên các tàu sân bay của Hạm đội 7 bắn phá và bóc vỏ thành phố Đồng Hới và những vùng khác ở miền Bắc Việt Nam trong khu vực từ vĩ tuyến 17, và trong tháng tư Mỹ bắt đầu sự bắn phá có hệ thống và pháo kích khu vực phía Nam của Bắc Bộ. Ngày 24 tháng 4, 1965, Tổng thống Johnson tuyên bố toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và một khu vực rộng 100 dặm trên biển dọc theo bờ biển VN là “khu vực thuộc về các hành động quân sự của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ.” Phá hoại hòa bình và công việc xây dựng của VNDCCH. Trong một thời gian ngắn, hàng trăm ngàn thanh niên nam nữ đã đáp lời kêu gọi của Đảng Lao động Việt Nam và tự nguyện tham gia quân ngũ, lực lượng dân quân của người dân, và các đoàn thanh niên sửa chữa đường xá, các quá trình chuyển đổi bắt buộc của nền kinh tế nhân dân để phục vụ một cuộc chiến tranh đã bắt đầu. Thành phố được một phần sơ tán, và một mạng lưới rộng lớn của các nơi trú ẩn an toàn và ngăn nắp đã được tạo ra để bảo vệ dân chúng. Với sự hỗ trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống phòng không của nước này đã nhanh chóng được tăng cường. Sớm nhất là vào cuối tháng, trên 300 máy bay Mỹ đã bị bắn rơi ở miền Bắc VN, và trong cả năm 1965 hơn 800 máy bay Mỹ đã bị bắn rơi.

Những thất bại liên tục của quân đội Sài Gòn vào mùa đông năm 1964 và mùa xuân năm 1965 đã cho người Mỹ thấy sự cần thiết phải nhận lấy vai trò chính trong việc tiến hành các hoạt động quân sự. Ngày 8 tháng 3 năm 1965, phân đội đầu tiên của thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên bờ ở miền Nam Việt Nam trong những vùng lân cận Đà Nẵng, và vào tháng 4 lực lượng trên bộ của Mỹ dưới quyền tướng Westmoreland đã được tổ chức. Ngày 8 tháng 7, Bộ Ngoại giao Mỹ đã chính thức tuyên bố rằng Mỹ ở miền Nam Việt Nam là có quyền sử dụng quân đội Mỹ hoàn toàn không cần bị giới hạn trong các cam kết phòng thủ chung (như đã được ấn định đến thời điểm này theo thông lệ quốc tế), mà còn trong các hoạt động tấn công chống lại du kích. Quân Giải phóng đã tổ chức biểu tình để phản đối và tuyên bố rằng trong trường hợp cần thiết sẽ kêu gọi bạn bè trên thế giới gởi tình nguyện viên cho miền Nam Việt Nam chống Mỹ.

Sự leo thang đánh phá của Mỹ chống miền Bắc Việt Nam vẫn tiếp tục. Vào ngày 9 tháng 7 năm 1965, không quân Mỹ đã bắt đầu những vụ đánh bom có hệ thống vào những vùng phía Nam của VNDCCH nằm giữa vĩ tuyến 17 và 19, vào cuối tháng 8, họ đã đánh bom vào các công trình thủy lợi vốn đang bắt đầu. Trong 6 tháng đầu năm 1965, đã có những trận đánh lớn ở phía Nam của Việt Nam tại Sông Bé, trong khu vực của Quảng Ngãi, và gần Đông Hà, phía bắc Sài Gòn. Mỹ và các lực lượng Việt Nam Cộng hòa thoát khỏi sự bị tuyệt diệt hoàn toàn trong những trận chiến này chỉ nhờ vào những hành động không yểm của máy bay Mỹ. Các lực lượng viễn chinh Mỹ đã phát triển nhanh chóng, và vào cuối năm 1965, nó đã vượt quá 185.000 người. Năm 1965, Mỹ đã có được sự đồng ý của các đồng minh trong khối tích cực – Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Australia, và New Zealand để gởi các đội ngũ quân đội vào miền Nam Việt Nam, bắt đầu vào tháng 9, để chống lực lượng miền Nam Việt Nam yêu nước.

Trong mùa khô 1965-1966 (từ tháng 10 đến tháng 5), các chỉ huy của Mỹ, dựa vào các căn cứ ven biển, cố gắng nắm bắt những vùng giải phóng của miền Trung Việt Nam – Pleiku và Kontum bằng một loạt những đợt đột kích di động, họ đã cố gắng gây tổn thất cho sinh lực của lực lượng Nam Việt Nam yêu nước, đẩy họ đến biên giới Lào và Campuchia, và sau đó tiêu diệt. Các hoạt động trên bộ của quân đội Mỹ đã được hỗ trợ bởi các cuộc không kích lớn. Trong chiến dịch quân sự của 1965-66, cũng như trong tất cả những năm tiếp theo, lực lượng Mỹ với các phương pháp vô nhân đạo đã bị cấm theo quy định của pháp luật quốc tế, đã biến Việt Nam thành một sân thí nghiệm lớn cho hàng trăm loại vũ khí và thiết bị quân sự. Đến năm 1969, Hoa Kỳ đã sử dụng kinh nghiệm chiến đấu của hơn 2 triệu người Mỹ, bao gồm phần lớn chuyên viên không lực và hầu như tất cả chuyên viên của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Các lực lượng Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã sử dụng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt như bom napalm, phốt-pho và các chất độc khí chống lại binh lính của các lực lượng yêu nước và thường dân, đó là một thực trạng phổ biến; phù hợp với chính sách chiến tranh “tiêu thổ”, họ phá hủy cây trồng, thực vật, và rừng trong vùng giải phóng. Điều này gây nên sự phẫn nộ trên toàn thế giới. Ngay từ đầu năm 1965, chính phủ Liên Xô đã gởi một lưu ý cho chính phủ Mỹ phản đối việc sử dụng các khí độc của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam.

Mặc dù đã sử dụng nhiều nguồn lực quân sự, các kế hoạch quân sự của Mỹ vẫn phải chịu thất bại liên tiếp. Các lực lượng yêu nước của miền Nam Việt Nam không chỉ đẩy lùi cuộc tấn công của đối phương, mà họ thậm chí còn mở rộng vùng giải phóng, phá hỏng các kế hoạch chiến lược của kẻ thù xâm lược và buộc Mỹ phải tiến hành chiến tranh trong thế bị động từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1965.

Trong tháng 4 năm 1965, Tổng thống Johnson đã tiến hành một “cuộc tấn công ngoại giao” chống lại những người yêu nước Việt Nam. Trong bài phát biểu của ông ở Baltimore, ông đã đề xuất đàm phán “mà không có bất kỳ điều kiện sơ bộ” và hứa 1 tỷ USD viện trợ cho dân số của khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Về phần mình, quân Giải phóng đã công bố một tuyên bố 5 điểm vào ngày 22/3/1965, mở đường cho các quy định hòa bình về vấn đề Việt Nam và phản ánh nguyện vọng của toàn dân miền Nam. Tuyên bố đó yêu cầu tất cả quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam trong cách nhanh nhất và nhân dân Việt Nam được quyền quyết định số phận của riêng mình. Ngày 8 tháng 4, 1965, VNDCCH cũng đề xuất một chương trình phong phú cho các quy định chính trị về vấn đề Việt Nam: phù hợp với hiệp định Geneva, chính phủ Mỹ sẽ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, dẹp các căn cứ quân sự của nó, và chấm dứt các hành động quân sự tại Việt Nam, cho đến khi Việt Nam thống nhất trong hòa bình, cả hai khu vực của đất nước sẽ thực hiện đúng theo các quy định của hiệp định Geneva và không tham gia vào liên minh quân sự với các quốc gia khác, việc nội bộ của miền Nam Việt Nam sẽ được quyết định bởi người dân miền Nam Việt Nam mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của nước ngoài, sự thống nhất hòa bình của Việt Nam sẽ được quyết định chỉ bởi người dân Việt Nam mà không có bất kỳ sự can thiệp từ bên ngoài. Chương trình này sau đó trở thành được biết đến như là chương trình “4 điểm” của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Liên Xô ủng hộ hoàn toàn quan điểm của VNDCCH và quân Giải phóng trên quy định hòa bình của vấn đề Việt Nam, cụ thể là các phản ứng của Liên Xô vào ngày 29 tháng 4, 1965, và trong tuyên bố ngày 9 tháng 12, 1965.

Từ những ngày đầu trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đứng vững bên phía người Việt Nam. Chính phủ Liên Xô, một trong những bên ký tên vào Công ước Geneva năm 1954, đã lên án các hoạt động tích cực của Hoa Kỳ chống VNDCCH. Trong khi đó, Anh, một bên ký tên khác của Công ước Geneva, nhưng về cơ bản ủng hộ chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Một loạt các thỏa thuận về hợp tác Liên Xô – Việt Nam đã được ký kết trong một chuyến đi đến VN được thực hiện trong tháng 2 năm 1965 bởi phái đoàn chính phủ Liên Xô, đứng đầu là A.N. Kosygin, Chủ tịch của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và là thành viên của Bộ Chính trị của Ủy ban Trung ương Cộng sản Liên Xô. Các bên đồng ý tổ chức tham vấn thường xuyên. Trong chuyến thăm Liên Xô, Đảng Lao động và phái đoàn chính phủ VNDCCH, do Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam là Lê Duẩn vào tháng 4 năm 1965 đã đạt được một nhận thức chung về các bước tiếp theo để bảo vệ an ninh và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam, các biện pháp thích hợp đã được vạch ra. Liên Xô khẳng định sẵn sàng cung cấp mọi sự trợ giúp cần thiết để đẩy lùi quân xâm lược Mỹ trong tương lai.

Trong tháng 12 năm 1965, thỏa thuận đã được ký kết tại Moscow, Liên Xô bắt đầu viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho VNDCCH vào năm 1966 đối với các nhu cầu phát sinh trong quá trình đấu tranh của người Việt Nam chống xâm lược Mỹ. Theo các hiệp định, VNDCCH bắt đầu nhận được số lượng cần thiết của súng phòng không, tên lửa, và các máy bay chiến đấu hiện đại của Liên Xô. Các chuyên gia Liên Xô đã giúp người bạn Việt Nam làm chủ kỹ thuật quân sự hiện đại của họ. Đặc biệt, rất nhiều sự chú ý được dành cho việc chuẩn bị kỹ thuật tên lửa và phi công quân sự. Đồng thời, Liên Xô tiếp tục có những hoạt động hỗ trợ cần thiết cho VNDCCH trong việc tái thiết và phát triển các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt là ở hàng phòng ngự.

Tại nhiều cuộc hội họp, các công nhân của Liên Xô đã phẫn nộ phản đối cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Một phong trào rộng lớn diễn ra ở trong Liên Xô, kèm theo những khẩu hiệu “Dừng lại cuộc xâm lược!” “Buông Việt Nam ra!” và “Hòa bình cho Việt Nam” bởi công đoàn Liên Xô, thanh niên, phụ nữ và các tổ chức công cộng khác! Họ đã hỗ trợ vật chất lên đến hơn một triệu rúp đến VNDCCH và những người miền Nam Việt Nam yêu nước vào năm 1965.

Một biểu hiện nổi bật về sự đoàn kết của Liên Xô với cuộc đấu tranh của Việt Nam là thỏa thuận về việc thành lập đại diện thường trực của quân Giải phóng ở Moscow.

Các biến chuyển của những cuộc biểu tình chống cuộc xâm lược của Mỹ ở Việt Nam đã lan ra khắp thế giới. Đại diện của các đảng cộng sản và công nhân của các bên, hội họp tại Moscow cho một cuộc họp tư vấn, ra một tuyên bố đặc biệt vào ngày 3/3/1965, mạnh mẽ lên án những kẻ xâm lược Mỹ, thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế với người dân VNDCCH, các anh hùng của Đảng Lao động Việt Nam, và quân Giải phóng, và công bố sự cần thiết của việc tăng cường thống nhất hành động trong sự hỗ trợ của người dân Việt Nam. Hội đồng Hòa bình Thế giới, Liên đoàn Công đoàn Thế giới, Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Thế giới, Ủy ban Đoàn kết các nước châu Á và châu Phi, và Đại hội Thế giới vì Hòa bình, Độc lập dân tộc và Giải trừ quân bị rộng khắp…. đã hỗ trợ người dân Việt Nam.

Việc tăng cường mạnh xu hướng “diều hâu” trong chính sách đối ngoại của Mỹ năm 1965 đã được đi kèm với các tình tiết tăng nặng của cuộc đấu tranh nội bộ ở trong chính nước Mỹ, đã có rất nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh, các cuộc tuần hành hòa bình, các cuộc họp, chống nhập ngũ, chống bắt lính, và cố gắng cản trở các công văn quân đội và hàng hóa quân sự gởi đến Việt Nam. Một cuộc đấu tranh nội bộ dữ dội tiếp tục trong giới cầm quyền: những người ủng hộ một định hướng tương đối vừa phải, dù không phản đối nguyên tắc can thiệp của Mỹ, song vẫn cảnh báo chính phủ về sự nguy hiểm của việc mở rộng quá mức các cuộc xung đột trong khu vực Đông Nam Á, đe dọa dẫn đến một cuộc chiến tranh lớn hơn.

Từ khi Mỹ bắt đầu xâm lược Việt Nam, sự bất đồng đáng kể trong khối chủ nghĩa đế quốc đã được tiết lộ từ các chất vấn về sự hỗ trợ cho chính sách của Mỹ tại Việt Nam. Vì vậy, nhiều thành viên NATO, các thế lực quân sự và chính trị hàng đầu trong nhóm đế quốc, duy trì một thái độ dè dặt với việc mở rộng xung đột quân sự tại khu vực Đông Nam Á. Mỹ đã không thể có được sự hỗ trợ nhất trí cho hành động của mình tại Việt Nam, ngay cả từ các đồng minh trong SEATO: Pháp và Pakistan công khai từ chối hỗ trợ cuộc xâm lược của Hoa Kỳ, và để biểu lộ sự bất đồng với chính sách của Mỹ tại Việt Nam, Pháp đã gọi về các đại diện của mình ở các nước thành viên thường trực của SEATO. Hoa Kỳ cũng không thể áp lực được các nước Mỹ Latinh để ủng hộ sự can thiệp của mình vào Việt Nam. Các nước trung lập đã bày tỏ sự phản đối của họ về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Trong suốt quá trình của các cuộc thảo luận chính trị chung tại phiên họp thứ 20 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (tháng 9, 1965), đại diện của nhiều nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh đã yêu cầu Mỹ chấm dứt cuộc chiến tranh tại Việt Nam.

Trong tháng 12 năm 1965, Hội nghị lần thứ mười hai của Ủy ban Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã được tổ chức. Nghị quyết của họ chỉ ra sự cần thiết để chuẩn bị cho một cuộc đấu tranh chống xâm lược Mỹ. Hội nghị trung ương đã lưu ý rằng “toàn bộ đất nước đang trong tình trạng chiến tranh với Hoa Kỳ”. Đảng Lao động đưa ra khẩu hiệu trong bối cảnh này là “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược”, VNDCCH phát triển kinh tế kế hoạch cho 1966-67 đó là định hướng cho một cuộc đấu tranh vũ trang lâu dài. Kế hoạch này đã được thông qua các phiên họp tháng 4 năm 1966 của Quốc hội VNDCCH.

Năm 1966, người Mỹ tăng cường cuộc chiến tranh trên không chống VNDCCH. Trước đây không quân Mỹ đã thực hiện chủ yếu các cuộc đột kích của các nhóm từ 30 đến 60 chiếc máy bay ở độ cao trung bình, từ giữa năm 1965 tốc độ cải tiến của hệ thống phòng không Bắc Việt đã làm cho không lực Hoa Kỳ phải thay đổi hành động của các nhóm nhỏ ở mức thấp với độ cao 400m trở xuống, thường xuống đến 20m ở các khu vực bằng phẳng và 50-200m trên địa hình miền núi. Các công cụ gây nhiễu radar và phương tiện vô hiệu hóa hệ thống phòng không của VNDCCH đã được sử dụng rộng rãi. Máy bay Mỹ đã bay hàng ngày, thực hiện lên đến 450 lần xuất kích xâm nhập Bắc Việt Nam, trong một số ngày, tổng số lần xuất kích lên đến 500. Để làm tê liệt nền kinh tế của miền Bắc Việt Nam, Lầu Năm Góc đã cố gắng ném bom phá hủy các hệ thống giao thông của VN, và làm gián đoạn di chuyển trên đường sắt, đường cao tốc, và các tuyến đường nước.

Trong mùa hè, MacNamara, Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ, đã công bố một kế hoạch cho việc mở rộng hơn nữa những vụ đánh bom vào miền Bắc VN. Trong tháng 6, họ đã tấn công vào những vùng ngoại ô thủ đô Hà Nội và Hải Phòng, cảng chính của miền Bắc VN, bắt đầu giai đoạn không chiến không giới hạn vào miền Bắc Việt Nam. Trong tháng 12 năm 1966, không quân Mỹ bắt đầu ném bom các khu vực dân cư trong thành phố thủ đô. Tuy nhiên, kế hoạch của Lầu Năm Góc để tiêu diệt các tiềm năng kinh tế và quân sự của VNDCCH và để buộc họ từ chối giúp đỡ và hỗ trợ người dân miền Nam Việt Nam đã không thành công.

Vào đầu năm 1966, quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam một lần nữa đã cố gắng để có thể đi đến tổ chức một cuộc tổng tấn công. Các lực lượng chính dưới sự chỉ huy của Mỹ đã tập trung tại các tỉnh miền Trung Việt Nam: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, tiếp giáp với bờ biển. Trong quá trình hoạt động “tìm và diệt”, những kẻ xâm lược sử dụng rộng rãi chiến thuật “tiêu thổ”. Tuy nhiên, các cuộc tấn công này đã bị phá sản bởi những phản ứng tích cực của Quân Giải phóng miền Nam.

Vào mùa xuân năm 1966, cuộc chiến ở các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam và trong các khu vực Kontum và Pleiku tiếp tục với cường độ mới. Quân đội Mỹ đã bị bao vây và bị tổn thất nặng nề mặc dù có không quân hỗ trợ mạnh mẽ, bao gồm các phi cơ chiến lược B-52. Các nỗ lực hoạt động “tìm và diệt” ở các tỉnh liền kề Sài Gòn cũng không thành công bao nhiêu. Để xây dựng sức mạnh quân sự của mình ở VN, Mỹ liên tục bổ sung quân số và đem vào miền Nam VN các công nghệ quân sự mới. Đến cuối năm 1966, lực lượng viễn chinh Mỹ đã tăng gấp đôi đến 380.000 người. Chỉ huy của Mỹ đã bắt đầu chuẩn bị cho một “phản công chiến lược” thứ hai trong mùa khô 1966-67. Đến thời điểm này, Mỹ đã tập trung sư đoàn 7 Dù ở miền Nam Việt Nam và một phần lớn của sư đoàn 13 Dù và bộ phận thứ ba của Bộ Tư lệnh Không quân chiến lược (máy bay B-52) ở Thái Lan. Một lực lượng tấn công của 3 tàu sân bay đã đóng quân thường trực ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam, máy bay của nó hoạt động chủ yếu để không kích miền Bắc VN. Khoảng 4000 quân đội Mỹ, máy bay phụ trợ, và vận tải và máy bay trực thăng đã được tập trung trong lĩnh vực này.

Năm 1967, không quân Mỹ tăng cường (so với 1966) số vụ đánh bom vào miền Bắc VN. Mục tiêu ném bom là đê, đập, và các công trình thủy lợi khác, kế hoạch của Mỹ là để “sản xuất lũ lụt” trong thung lũng sông Hồng, tràn ngập ruộng lúa, và rời khỏi khu vực không có nước trong mùa khô. Chính phủ VNDCCH đã thực hiện những cuộc di tản dân chúng không tham gia sản xuất hoặc quốc phòng trong thành phố. Đồng thời, việc bảo vệ phòng không ở Bắc Việt Nam tiếp tục được tăng cường, năng lực phòng không của Việt Nam cũng tăng trưởng bao gồm pháo phòng không, tên lửa có hướng dẫn, và các máy bay chiến đấu.

Trong mùa khô 1966-1967, các hoạt động quân sự của miền Nam Việt Nam mang đặc tính của một cuộc chiến tranh tự vệ tại chỗ trước quân đội Mỹ. Các hoạt động lớn nhất (Attleboro, Cedar Falls, và Junction City) tấn công vào các khu vực được tổ chức bởi các lực lượng yêu nước đã không mang lại thành công cho những kẻ xâm lược.

Một trong những khía cạnh đặc biệt của các hoạt động quân sự của các lực lượng trên bộ của Mỹ và thủy quân lục chiến tại thời điểm này là việc sử dụng rộng rãi máy bay trực thăng để vận chuyển binh lính và hàng hóa, và để làm dịu phần nào hỏa lực của quân Giải phóng trong khu đáp, ví dụ, tháng 5 và tháng 6 năm 1967 hàng ngày đã có trung bình từ 8.000 đến 11.000 phi vụ máy bay trực thăng di chuyển hơn 10.000 binh sĩ, sĩ quan, và một số lượng lớn vật tư.

Những người yêu nước của miền Nam Việt Nam đã phản ứng bằng phương pháp riêng của họ để đấu tranh chống lại các chiến thuật này của người Mỹ. Họ đã sử dụng rộng rãi hệ thống đường hầm ngầm và các căn cứ và nhiên liệu tăng cường trong các lĩnh vực quan trọng nhất. Hệ thống này xa với lối vào rất nhiều kết nối và lối thoát hiểm khẩn cấp thích hợp cho các trận chiến và hoạt động bí mật. Ngoài ra, Quân Giải phóng miền Nam và các đảng viên thường phải nhờ vào bóng đêm mà hành động quân sự, khiến kẻ địch không thể sử dụng sức mạnh không quân và pháo binh hiệu quả. Kết quả là, những kẻ xâm lược Mỹ đã bị buộc phải chuyển đến chính sách phòng ngự chiến lược.

Trong tháng 8 năm 1967, quân Giải phóng đã thông qua một chương trình mới, thành lập một chính phủ liên minh đại diện dân chủ đoàn kết dân tộc ở miền Nam Việt Nam. Chính phủ này sẽ khởi xướng một chính sách hòa bình, trung lập, và bắt đầu làm việc cho sự thống nhất từng bước của Việt Nam trên cơ sở của các cuộc đàm phán hòa bình giữa nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam đại diện bởi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, mà không có bất kỳ sự can thiệp từ bên ngoài. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ủng hộ chương trình này của quân Giải phóng như là sự phản ánh các lợi ích sống còn của người dân miền Nam Việt Nam.

Bắt đầu mùa khô 1967-68, người Mỹ lên kế hoạch hoạt động quân sự lớn, binh sĩ Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã lên đến 475.000, đã có 40.000 quân nhân trên tàu của Hạm đội 7, neo ngoài khơi bờ biển của Việt Nam, và Hoa Kỳ đã tập trung 6 sư đoàn lục quân (1 Bộ binh, 4 Bộ binh, 9 Bộ binh, 25 Bộ Binh, 1 Không kỵ, và 101 Dù), 2 sư đoàn thủy quân lục chiến (1 và 3) và 4 lữ đoàn độc lập (11, 196, 199 khinh kỵ, và 173 Dù) ở miền Nam Việt Nam. Ngoài ra, có 11 sư đoàn của quân đội Sài Gòn, 2 sư đoàn và một lữ đoàn lính đánh thuê Hàn Quốc và Úc, New Zealand, Thái Lan, và quân đội Philippines đồn trú. Tổng số quân khoảng 1,3 triệu binh sĩ vào cuối năm 1967. Trong khi chi phí của Mỹ cho cuộc chiến tại Việt Nam đã lên tới 24,5 tỷ USD trong năm 1966-67, chiến phí cho năm 1968-69 được lên kế hoạch trên 26 tỷ USD.

Vào mùa thu năm 1967, một trận chiến 70 ngày đã diễn ra trong khu vực của khu phi quân sự tại Côn Thiện, thủy quân lục chiến Mỹ đã buộc phải chiến đấu trong những vị trí phòng thủ mệt mỏi mà thực tế đã chứng minh là hoàn toàn không phù hợp. Vào tháng Giêng năm 1968, trận chiến mở rộng bắt đầu từ thung lũng Khe Sanh, 25km về phía Nam của vĩ tuyến 17. Tại thời điểm này, đã có những cuộc đột kích chống lại các căn cứ lớn nhất của Mỹ – một loại mở đầu cuộc tổng tấn công rộng lớn của các lực lượng vũ trang quần chúng.

Mỹ tiếp tục ném bom vào miền Bắc Việt Nam trong tháng 10 và tháng 11 năm 1967, mục tiêu chính của nó là để cắt hết viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa cho VNDCCH, bởi các cuộc tấn công có hệ thống vào cảng Hải Phòng. Những kẻ xâm lược đã không nhận ra sự hy sinh và lòng quả cảm của người Việt Nam. VNDCCH tiếp tục tăng cường năng lực phòng thủ và đẩy lùi kẻ xâm lược mạnh mẽ hơn nữa. Các nước đồng minh, Liên Xô đầu tiên và quan trọng nhất trong số đó, hỗ trợ VNDCCH trong việc hoàn thiện lực lượng không quân và phòng thủ phòng không và viện trợ các vũ khí, kỹ thuật phòng không hiện đại. Trong tháng 9 năm 1967, hiệp ước thường xuyên viện trợ từ Liên Xô sang VNDCCH cho năm 1968 đã được ký kết tại Moscow. Liên Xô tiếp tục viện trợ có hoàn lại cho VNDCCH về kinh tế và quân sự, với máy bay, tên lửa phòng không và pháo binh, súng, đạn dược và trang thiết bị quân sự khác mà không phải trả phí ngay. VNDCCH cũng nhận được sự trợ giúp vật chất cần thiết cho sự phát triển của cơ cấu kinh tế, quân sự và dân sự.

Sự bắt đầu của năm 1968 được đánh dấu bởi sự triển khai mở rộng một cuộc tấn công rộng khắp của các lực lượng vũ trang của quân Giải phóng chống lại những kẻ xâm lược Mỹ và các đồng lõa của họ. Vào đêm 29 tháng Giêng, 1968, lực lượng vũ trang Giải phóng, với sự hỗ trợ rộng rãi và trong nhiều trường hợp có sự tiếp viện vũ trang trực tiếp từ nhiều bộ phận dân cư, bắt đầu một cuộc tấn công bất ngờ và khéo léo phối hợp chống quân đội Mỹ và Sài Gòn trên khắp miền Nam Việt Nam. Bốn mươi ba thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Qui Nhơn, Đà Lạt, và hàng trăm thành phố nhỏ hơn đã bị tấn công cùng một lúc. Căn cứ không quân lớn nhất của Mỹ bị tấn công. Phạm vi và sức mạnh của cuộc tấn công này đã hoàn toàn bất ngờ với người Mỹ. Sài Gòn bị bao vây bởi các lực lượng yêu nước: một “vành đai đỏ” hình thành xung quanh nó. Trong quá trình trận chiến đô thị ở Sài Gòn và Huế, các đại diện yêu nước của giới trí thức, thương mại, công nghiệp, phong kiến, sĩ quan bỏ ngũ trong quân đội Sài Gòn, và giáo sĩ đã tham gia cùng nhau trong Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, Công đoàn, được hỗ trợ bởi quân Giải phóng, đã tuyên bố chủ quyền Việt Nam và yêu cầu độc lập dân tộc, mục tiêu tầm xa là sự thống nhất, hòa bình của toàn Việt Nam.

Dù chịu những vụ đánh bom có hệ thống vào lãnh thổ của VNDCCH do không quân Hoa Kỳ gây ra, các công nhân Việt Nam, dẫn đầu bởi Đảng Lao động, có thể xây dựng lại nền kinh tế của đất nước trên một cơ sở chiến tranh với sự trợ giúp của các nước đồng minh. Sự thống nhất về tinh thần và chính trị của đất nước được tăng cường.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng hoàn thành một khối lượng lớn công việc. Trong vùng giải phóng ở miền Nam VN, cải cách nông nghiệp rộng lớn đã được giới thiệu và bầu cử đã được tổ chức cho các cơ quan địa phương, cuộc bầu cử tháng 11 năm 1968 đã được hoàn thành trong 17 tỉnh, 5 thành phố và 38 huyện ở miền Nam.

Sự hỗ trợ về tinh thần và chính trị cho các anh hùng Việt Nam tiếp tục mở rộng trên toàn thế giới. Tại một hội nghị ở Bucharest trong tháng 7 năm 1966 của Ủy ban tư vấn chính trị của các bên ký kết Hiệp ước Warsaw, đã nhấn mạnh rằng các nước xã hội chủ nghĩa đã và sẽ tiếp tục viện trợ cho VNDCCH. Các nước đồng minh tuyên bố sẵn sàng trong trường hợp Việt Nam yêu cầu thì họ sẽ lập tức cho những người tình nguyện đến Việt Nam để hỗ trợ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh của họ chống lại những kẻ xâm lược Mỹ. Những điều này đã được tái khẳng định tại một cuộc họp của Ban cố vấn chính trị của các bên ký kết của Hiệp ước Warsaw đã diễn ra tại Sofia vào ngày 6-7 tháng 3, 1968. Một cuộc họp của các đại diện của cộng sản châu Âu và lực lượng công nhân của các bên tại Karlovy Vary vào tháng 4 năm 1967 đã thông qua một địa chỉ để hỗ trợ người Việt Nam, và một thông điệp của tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam đã được thông qua tại một cuộc họp tham vấn của các đại diện của cộng sản và công nhân của các bên tại Budapest vào tháng 2-tháng 3 năm 1968. Hội nghị Thế giới về Việt Nam đã được tổ chức trong tháng 6 năm 1967. Ngày 21 tháng 10, 1967, đã có một Ngày đoàn kết quốc tế hành động vì hòa bình và chống cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam để đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban Điều phối quốc tế ở Stockholm.

Trong quá trình thảo luận chung của phiên họp thứ 22 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (1967), trong số 110 tiếng nói thì chỉ có các đại diện của 7 quốc gia ủng hộ chính sách của Washington tại Việt Nam. Đại diện của 44 quốc gia kêu gọi Hoa Kỳ ngưng đánh bom VNDCCH, trong đó có 5 đại biểu các đồng minh của Mỹ trong khối NATO.

Nhiều cuộc biểu tình và tuyên bố bảo vệ nước Việt Nam đang bị vây khốn đã xảy ra ở trong chính nước Mỹ. Trong tháng 10 năm 1967, đã có một cuộc biểu tình lớn ở Washington quy tụ trên 150.000 người từ 47 tiểu bang.

Phù hợp với nghị quyết của Liên đoàn Công đoàn Thế giới, vào ngày 20 tháng 7 năm 1968, kỷ niệm ngày ký kết Geneva, các cuộc hội họp và biểu tình khổng lồ bày tỏ tinh thần đoàn kết với Việt Nam đã diễn ra ở nhiều nước.

Trong thời gian này, trên tổng số lực lượng vũ trang (1,4 triệu người) tham gia trong cuộc chiến chống lại các lực lượng dân chủ của Việt Nam, khoảng 600.000 (đầu năm 1969) là quân nhân Mỹ. Mỹ sử dụng 37% trong tổng số thủy quân lục chiến của họ, 41% trong tổng số máy bay chiến đấu của lực lượng không quân chiến thuật Mỹ, lên đến 20% trong tổng số lực lượng máy bay tấn công tàu sân bay của Mỹ, 30% trong tổng số máy bay và trực thăng của lực lượng không quân, và hơn 20% trong tổng số máy bay ném bom chiến lược của họ để duy trì các hành động quân sự tại Việt Nam. Hơn 2 triệu tấn vật tư quân sự khác nhau đã được chuyển từ Mỹ đến VN mỗi tháng trong thời gian 1968-69. Từ khởi điểm cuộc chiến cho đến cuối năm 1968, không quân Mỹ đã thực hiện trên 90.000 phi vụ không kích miền Bắc VN và không kích các vị trí của lực lượng giải phóng miền Nam Việt Nam và Lào, và đến thời điểm đó đã sử dụng khoảng 2,3 triệu tấn bom. Đồng thời, quân đội xâm lược đã thực hiện hơn 500 hoạt động tìm và diệt, với các lực lượng khác nhau, từ một tiểu đoàn đến nhiều lữ đoàn, chống Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam; phần lớn các hoạt động như vậy, tuy nhiên, là không thành công. Trong khi trong những năm đầu của cuộc chiến tại Việt Nam, các cấp chỉ huy của Mỹ đã cố gắng tiến hành các hoạt động tấn công lớn, nhưng bắt đầu từ năm 1968, theo các đợt công kích ráo riết của Quân Giải phóng miền Nam, Mỹ đã buộc phải từ bỏ các hoạt động này và chuyển đến hành động phòng thủ và kiềm chế, chủ yếu “phòng thủ di động” với phần lớn các lực lượng tập trung trong những căn cứ quan trọng nhất.

Sự thiệt hại của không quân Mỹ vào năm 1968 trung bình là hơn 70 máy bay một tháng, tổng cộng 3.243 máy bay đã bị bắn rơi trong khoảng thời gian từ ngày 5 tháng 8, 1964, 31 tháng 10, 1968. So với cùng kỳ, 143 tàu chiến Mỹ bị đánh chìm hoặc bị hư hại. Vào giữa năm 1969, tổn thất của lính Mỹ chết và bị thương ở Việt Nam, theo thông tin chính thức quân đội Mỹ, đã đạt 280.000 lính, vượt quá tổn thất của Mỹ trên bán đảo Triều Tiên từ 1950 đến 1953 và tương đương sự thương vong của Hoa Kỳ trong Thế chiến I.

Những thất bại của các hoạt động quân sự Mỹ ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam, những áp lực ngày càng nặng của dư luận thế giới công kích chính phủ và quân đội Mỹ, và sự suy giảm uy tín của Hoa Kỳ buộc Washington vào ngày 1 tháng 4, 1968 giảm cường độ ném bom miền Bắc VN. Tổng thống Johnson đã công bố thỏa thuận của Hoa Kỳ để tham gia vào các cuộc đàm phán với VNDCCH. Các cuộc đàm phán song phương giữa Xuân Thủy, đại diện cho VNDCCH, và A. Harriman, đại diện cho Hoa Kỳ, bắt đầu từ tháng 5 năm 1968 ở Paris sau khi những cuộc đấu tranh ngoại giao và chính trị phức tạp, các cuộc đàm phán đã đi kèm với một sự leo thang hơn nữa của cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Thông qua các cuộc đàm phán, hai phía đã đạt được một sự thông hiểu về việc chấm dứt hoàn toàn và vô điều kiện của Mỹ ném bom và các hành động quân sự khác chống lại Việt Nam kể từ tháng 11 năm 1968. Một sự thông hiểu cũng đã đạt được về tổ chức các cuộc họp tại Paris 4 bên liên quan đến đại diện của VNDCCH, Hoa Kỳ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn với mục đích của việc tìm kiếm phương tiện để đạt được một nghị quyết chính trị về vấn đề Việt Nam. Thành công quan trọng này là nhờ vào cuộc đấu tranh tự hy sinh của người Việt Nam với sự viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, và sự đoàn kết quốc tế của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Đồng thời, hành động quân sự chuyên sâu tiếp tục ở miền Nam: Mỹ và quân đội Sài Gòn đã tiến hành một loạt các nỗ lực tuyệt vọng khi phản công chống các lực lượng vũ trang quần chúng.

Như được biết đến, vào mùa thu năm 1969, quân đội Mỹ bắn chết hơn 500 cư dân vô tội, trong đó có 170 trẻ em, trong làng Sơn Mỹ, tỉnh Quảng Ngãi, miền Nam Việt Nam.

Tháng 5 năm 1969, trong quá trình hội nghị bốn bên ở Paris (bắt đầu vào tháng Giêng năm 1969), quân Giải phóng đưa ra chương trình 10 điểm, “Các nguyên tắc và nội dung của một nghị quyết chung của vấn đề miền Nam Việt Nam với mục tiêu góp phần tái lập hòa bình tại Việt Nam”, chương trình được tiến hành từ các mệnh đề cơ bản của các hiệp định Geneva và tình hình tại Việt Nam.

Một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh chống xâm lược Mỹ ở Việt Nam đã bắt đầu với việc công bố Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong tháng 6 năm 1969. Điều này xuất phát từ nhu cầu thực tế cần một chính phủ thống nhất tạm thời ở miền Nam để thay thế cho các chính quyền dân cử địa phương, các cơ quan tự phát từ các cấp xã, thôn, tỉnh, vốn trước đó đã được dân địa phương thành lập để thay thế các bộ phận hành chính con rối của Mỹ, để giải quyết việc hành chính, trong những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam. Ngày 13 tháng 6 năm 1969, Liên Xô công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Đến tháng 8, nó nhận được sự công nhận chính thức từ 26 quốc gia. Sự kiện này càng động viên quần chúng và các lực lượng vũ trang giải phóng chiến đấu chống quân đội Mỹ và Sài Gòn trên toàn miền Nam Việt Nam trong nửa hai của năm 1969. Duy trì thanh thế từ sự kiện này, lực lượng Nam Việt Nam yêu nước đã giáng thêm nhiều đòn đáng kể hơn bao giờ hết vào quân đội Hoa Kỳ.

Nhằm trốn tránh những câu hỏi cấp bách liên quan đến sự giải quyết và vấn đề hòa bình ở Việt Nam, cũng như về sự can thiệp nước ngoài vào Việt Nam, vấn đề rút quân vô điều kiện và hoàn toàn của quân đội Mỹ và các “vệ tinh” của nó ra khỏi miền Nam Việt Nam và công nhận các quyền tự quyết của người dân miền Nam VN – chính phủ Mỹ phải viện đến một hành động có tính chất lừa dối, họ thông báo rút 60.000 binh lính Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam vào cuối năm 1969, thông báo này được thực hiện bởi tổng thống Richard Nixon vào ngày 8 tháng 6 và ngày 16 tháng 9 năm 1969. Bằng biện pháp này, chính phủ Mỹ vừa nỗ lực bình định vừa gây nhầm lẫn trong dư luận thế giới đại chúng, vốn luôn yêu cầu đình chỉ ngay cuộc xâm lược của Mỹ tại Việt Nam.

Trong 1968-69, Phong trào Đoàn kết với Việt Nam khổng lồ này tiếp tục phát triển trên toàn thế giới. Hội nghị Quốc tế Cộng sản và công nhân của các Bên, họp tại Moscow vào tháng 6 năm 1969, đã lên án hành động của Hoa Kỳ tại Việt Nam và bày tỏ tinh thần quốc tế đoàn kết với người dân Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam, và quân Giải phóng, đội quân tiên phong dẫn đầu cuộc đấu tranh anh hùng chống xâm lược Mỹ. Tài liệu cơ bản của hội nghị lưu ý rằng một chiến thắng cuối cùng của những người yêu nước Việt Nam sẽ có tầm quan trọng chủ yếu trong việc tăng cường vị trí của các quốc gia bị trị trong cuộc đấu tranh của họ chống lại chính sách đế quốc của các chế độ độc tài. Hội nghị ra tuyên bố nhấn mạnh rằng Mỹ phải ngay lập tức chấm dứt các hành động leo thang tại Việt Nam, thừa nhận quyền của người dân miền Nam Việt Nam để quyết định các công việc nội bộ của mình một cách độc lập mà không cần sự can thiệp của nước ngoài, và chấm dứt bất kỳ hành động nào nhằm tấn công phá hoại miền Bắc Việt Nam. Hội nghị kêu gọi tất cả những người yêu các giá trị hòa bình, công lý, tự do, và tính độc lập của các quốc gia tham gia tích cực hơn nữa trong phong trào đoàn kết với nhân dân Việt Nam và yêu cầu cả việc rút quân Mỹ và quân đội đồng minh ra khỏi Việt Nam và đạt được một nghị quyết về sự hòa bình của Việt Nam không chậm trễ.

Đại hội hòa bình thế giới, được tổ chức tại Berlin vào tháng 6 năm 1969, cũng kêu gọi dư luận thế giới hỗ trợ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và yêu cầu chính phủ Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Những người tham gia Đại hội công đoàn lần thứ VII thế giới, được tổ chức tại Budapest tháng 10 năm 1969, tuyên bố đoàn kết với cuộc đấu tranh của những người yêu nước Việt Nam. Hành động lớn nhất trên toàn quốc Hoa Kỳ chống lại cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam “chiến dịch chống cái chết” đã diễn ra tại Mỹ vào tháng 11 năm 1969. Phù hợp với các thỏa thuận năm 1970 và các văn bản khác sự hợp tác giữa Liên Xô và Việt Nam, viện trợ kinh tế và quân sự, tín dụng dài hạn mới, và lưu thông hàng hóa giữa Liên Xô và Việt Nam. Liên Xô gởi lương thực, dầu, vận chuyển hàng hóa, thiết bị, kim loại, phân bón hóa học, vũ khí, và các vật liệu khác cho VNDCCH.

Các nhà lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh giá cao sự hỗ trợ tinh thần và chính trị, cùng sự viện trợ kinh tế và quân sự của Liên Xô cho Việt Nam. Các đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước VNDCCH đại diện cho MTDTGPMNVN, Chính phủ cách mạng lâm thời CHMVN, và nhân dân VN, trong thông cáo ngày 20 tháng 10 năm 1969, trong chuyến thăm hữu nghị của đoàn Liên Xô, đã tuyên bố bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Đảng Cộng sản Liên Xô, chính phủ và nhân dân Liên Xô đã giúp đỡ có hiệu quả trong công cuộc chống quân xâm lược Mỹ và trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam.

Dịch thuật: Thiếu Long

Nguồn: Bách khoa thư Farlex (tiếng Anh)

Hùng ca Điện Biên Phủ trên không và những thế cờ chiến lược

Hùng ca Điện Biên Phủ trên không và những thế cờ chiến lược

Trong 12 ngày đêm cuối năm 1972, cả Việt Nam và thế giới đã chứng kiến kỳ tích thời đại Hồ Chí Minh: Chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”. Trong lịch sử chiến tranh giữ nước thời hiện đại, dân tộc Việt Nam luôn phải chống lại kẻ thù xâm lược có nền kinh tế và quân sự phát triển cao hơn, có khoa học kỹ thuật và công nghệ cao hơn, có thế và lực mạnh hơn gấp nhiều lần, và trận quyết chiến Điện Biên Phủ trên không, chống lại chiến dịch Linebacker II của không quân Hoa Kỳ cũng không ngoại lệ.

Song lực lượng phòng không nhân dân của Việt Nam đã đánh bại chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh điện tử quy mô lớn của Mỹ. Chiến thắng này đã đi vào lịch sử Việt Nam như một “Điện Biên Phủ trên không”. Hà Nội sau ngày đó đầy ắp tiếng cười, đã trở thành “Thành phố vì hòa bình” trong lòng bè bạn năm châu.

Từ trước đến nay đa số bạn đọc Việt Nam và quốc tế chỉ biết Điện Biên Phủ trên không như một trận đại thắng chói lọi, một bản hùng ca vang dội của quân dân Hà Nội và miền Bắc Việt Nam, nói lên ý chí quật cường của dân tộc. Còn bản chất chính trị, những vấn đề hậu trường, những nước cờ chính trị đầy bản lĩnh và trí tuệ, ý nghĩa thực chất, tính chất chính trị của nó, những gì phía sau nó thì các tài liệu giáo khoa, các giáo trình lịch sử công khai, các tuyên bố chính thức, các thông cáo báo chí từ cả hai phía Việt – Mỹ và quốc tế đều hiếm khi đề cập tới.

Phần lớn các tài liệu sách báo từ cả hai chiến tuyến đối địch và quốc tế đều chỉ tập trung miêu tả trận đánh và luận về khoa học kỹ thuật, về quân sự. Nghĩa là chỉ thấy phần “quân luận” chứ chưa có nhiều phần “chính luận” về Điện Biên Phủ trên không, và các vấn đề liên quan về cuộc chiến tranh Mỹ – Việt trong giai đoạn này.

Diễn biến chiến dịch và các trận chiến, các chiến thuật quân sự của hai bên đều đã được nhiều nơi ghi chép và phân tích tỉ mỉ, kỹ càng. Do đó người viết không đề cập tới những vấn đề mang tính chuyên môn quân sự đó trong bài tham luận này. Bài viết này chủ yếu phân tích về bản chất và các vấn đề chính trị, những vấn đề liên quan đằng sau và chung quanh Điện Biên Phủ trên không.

Khái quát sơ lược

Ngày 18 tháng 12 năm 1972, quân đội Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Linebacker II, nhằm tàn phá miền Bắc Việt Nam với trọng tâm chiến lược ở thủ đô Hà Nội. Ý đồ của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ là tấn công dồn dập bằng pháo đài bay chiến lược B-52 thay vì các máy bay ném bom chiến thuật và mục đích là dùng sức mạnh và biện pháp không hạn chế đánh thẳng vào các trung tâm đầu não của Việt Nam.

Chiến dịch này còn được giới dân sự Mỹ gọi là “The December Raids” (Cuộc bắn phá tháng 12) hoặc là “The Christmas Bombings” (Dội bom lễ Giáng sinh), một số người còn ví von gọi là “The nightmare before Christmas” (Cơn ác mộng trước Giáng sinh). Tại Việt Nam, sự kiện này ban đầu được gọi giản dị là “cuộc chiến 12 ngày đêm”, ngay sau đó một số báo Pháp đưa tin về việc này, đã ví trận thắng này như trận thắng Điện Biên Phủ ở trên không trung. Từ đó khái niệm “Điện Biên Phủ trên không” được báo chí Việt Nam thấy hay nên sử dụng đến nay.

Ý định của Hoa Kỳ là sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B-52 làm nòng cốt ném bom rải thảm để hủy diệt thủ đô của Việt Nam và đưa chiến sự lan ra cả Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác ở Bắc Việt. Tổng thống Nixon của Mỹ tràn đầy tự tin vào sức mạnh không quân vô địch của Mỹ, đã nói: “Chúng ta sẽ đánh bom cho họ về thời kỳ đồ đá” (We’re going to bomb them back into the Stone Age). Ông ta còn cao giọng lạc quan, đại ý: Các bạn phi công chỉ cần bay đủ độ cao, hỏa lực địch bắn không tới, các bạn chỉ cần bay thật cao và ấn nút là đủ, đó là tất cả những gì các bạn cần làm, bay cao – bấm nút – rồi về nhà ăn Noel, đây sẽ là một chiến dịch dễ nhất trong binh nghiệp của các bạn.


Máy bay Mỹ bay cả đàn vào không kích miền Bắc Việt Nam

Đây là một cuộc đụng đầu lịch sử giữa một bên là dân tộc Việt Nam ngàn năm văn hiến, một thủ đô Thăng Long – Hà Nội bất khuất, ngạo nghễ, một bên là sức mạnh áp đảo bách chiến bách thắng của lực lượng không quân tinh nhuệ nhất hành tinh và với những máy bay chiến lược hiện đại, tối tân nhất thế giới thời bấy giờ.

Phía Hoa Kỳ do hai tướng John Dale Ryan (Thành viên của Bộ tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ – JCS, cố vấn cao cấp của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ và Hội đồng An ninh Quốc gia, lập nhiều chiến công thành tích trong Thế chiến II) và John W. Vogt Jr (nguyên Tư lệnh lực lượng Đồng minh ở mặt trận Trung Âu trong Thế chiến II, Tổng tư lệnh Không quân Hoa Kỳ ở châu Âu) chỉ huy. Phía Việt Nam chủ yếu do ba tướng Văn Tiến Dũng, Phùng Thế Tài, Lê Văn Tri chỉ huy. Hầu hết toàn bộ quân dân Hà Nội và nhiều tỉnh thành miền Bắc đều tham chiến, trong đó một bộ phận không nhỏ nữ binh và lão binh (bạch đầu quân – lính đầu bạc).

Không chỉ có miền Bắc chống lại chiến dịch Linebacker II của Mỹ, mà đồng bào miền Nam cũng góp sức chống lại chiến dịch này bằng những trận đánh để “rửa hận cho miền Bắc”. Ngay từ những ngày đầu đế quốc Mỹ đánh bom miền Bắc, đông đảo cán bộ đảng viên và quân dân miền Nam đều cảm thấy khó chịu, trăn trở, phê bình nhau: “Tại sao giặc Mỹ hỗn láo đánh miền Bắc mà ta trừng trị kém như vậy?”

Nhưng do thực lực của quân kháng chiến miền Nam lúc đó vẫn đang trong quá trình phục hồi, xây dựng, hoàn thiện lại kể từ chiến dịch Mậu Thân, không còn mạnh như trước Mậu Thân 1968, và lục quân Mỹ vẫn còn đầy đủ ở đây, nên miền Nam lúc đó không dễ mở những chiến dịch quân sự lớn, mà chủ yếu đánh du kích. Tuy nhiên, các lực lượng biệt động, dân quân – tự vệ Sài Gòn đã có những trận đánh vào Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, một số nơi có Mỹ-ngụy ở Sài Gòn, để phục thù cho đồng bào miền Bắc.

Trong 12 ngày đêm xâm lược không phận và tung hoành trên vùng trời Hà Nội, lực lượng không quân thiện chiến của Mỹ đã ném xuống hơn 36.000 tấn bom. Không quân Mỹ đã được lệnh dội bom vào các khu vực dân sự; nhà cửa, bệnh viện, nhà máy, trường học, nhà thờ, chùa chiền v.v. để khủng bố tinh thần Việt Nam. Những đợt tấn công này đã gây thương vong cho hàng chục ngàn dân lành, phá hủy hoàn toàn hàng ngàn nhà dân và hàng trăm trường học, bệnh viện, rạp hát, chùa miếu, nhà thờ, đền thờ, di tích lịch sử…. Tại Hà Nội, khu phố Khâm Thiên hoang tàn nhất, bị phá hủy hoàn toàn.

100% số nhà máy điện bị đánh phá, 1.500/1.600 công trình thủy lợi và gần 100 km đê xung yếu bị hư hại; Hầu hết cầu cống quan trọng và toàn bộ 6 tuyến đường sắt đều bị đánh hỏng; 3/6 thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên) và 23/30 thị xã, 96/116 thị trấn, 3.987/5.788 xã, 350 bệnh viện, gần 1.500 bệnh xá, 1.300 trường học bị tàn phá nặng nề; trong đó có 12 thị xã, hơn 300 xã, 10 bệnh viện, 11 ga xe lửa đầu mối bị hủy diệt hoàn toàn.


Bệnh viện Bạch Mai bị phá hủy. Về sau trong sân bệnh viện có tấm bia mang chữ “Căm thù” để tưởng nhớ về sự kiện bi thương này và ghi nhớ tội ác chiến tranh xâm lược.


“Mai trắng hồi sinh”, bệnh viện Bạch Mai ngày nay.

“Chim lửa” B-52 lợi hại ra sao?

“Chim ưng lửa” B-52 có tên giao dịch là Boeing B-52 Stratofortress (Pháo đài chiến lược) là máy bay ném bom chiến lược phản lực được không quân Hoa Kỳ sử dụng từ Thế chiến 2. Do giá thành tốn kém (53,4 triệu USD mỗi chiếc) và số lượng khiêm tốn (lịch sử Mỹ tới nay chỉ có 744 chiếc được sản xuất), nên nó chỉ được dùng để thả các vũ khí quy ước trong các cuộc chiến tranh thực tế. Máy bay này là chiếc máy bay ném bom có tầm bay xa không cần tiếp nhiên liệu dài nhất, và mang được đến 27 tấn vũ khí.

Với tầm bay cao, được bảo vệ bởi nhiều máy bay tiêm kích và hệ thống gây nhiễu điện tử hiện đại, có thể nói B-52 là một pháo đài bay không thể bị bắn trúng. Đặc biệt, nhiễu điện tử của không quân Mỹ như một bức màn chắn đã gây khó khăn lớn cho bộ đội phòng không. Như vậy, không quân Mỹ với “bửu bối” B-52 là một lực lượng vô địch thế giới và bất khả chiến bại trong thời điểm đó. Và chúng đua nhau bay “cả đàn” vào Hà Nội để thực hiện cuộc chiến tranh điện tử hủy diệt tàn bạo, muốn phá hủy thủ đô của nước Việt Nam thành bình địa, “đưa Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá”.



Dự thảo và sách đỏ về cách đánh B-52

Trong chiến dịch Linebacker II, hãng thông tấn Associate Press (Mỹ) đã bình luận một cách đầy lo lắng: “Cứ theo tốc độ bị bắn rơi như thế này thì chỉ sau ba tháng, B-52 sẽ tuyệt chủng.” và “Những thất bại trên là do lực lượng phòng không của Việt Nam đã biết khai thác triệt để các kẽ hở rất mờ nhạt trong hệ thống phòng thủ của B-52. Ngược lại, việc triển khai ồ ạt B-52 trong khoảng thời gian ngắn không cho phép chúng ta khắc phục những điểm yếu, dẫn đến B-52 bị các tên lửa đất đối không của Việt Nam tiêu diệt.”.

Đây là thất bại nặng nề và duy nhất của loại máy bay này trên chiến trường, dẫn đến việc thay đổi hoàn toàn chiến lược sử dụng B-52 trong các giai đoạn sau và chiến lược phát triển không quân nói riêng, và quân sự nói chung của Hoa Kỳ về sau này.


Ba chiếc B-52B thuộc Không đoàn Ném bom 93 chuẩn bị cất cánh khỏi Căn cứ Không quân Castle, California, trong chuyến bay phá kỷ lục vòng quanh thế giới năm 1957.


B-52 đang rải bom

Sau chiến tranh xâm lược Việt Nam, phía Mỹ trang bị lại cho loại máy bay này, các máy bay B-52 được trang bị tên lửa hành trình và sẽ phóng tên lửa từ xa thậm chí không cần bay vào vùng trời mục tiêu. Tuy nhiên, hiệu ứng tâm lý gây choáng khi bị ném bom rải thảm đã bị quân dân Hà Nội đập tan, đã tan theo từng đợt B-52 rơi rụng. B-52 một thời được xem là niềm tự hào của người Mỹ và quân đội Mỹ. Tuy nhiên đối với nhân dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Hà Nội, thì B-52 là một biểu tượng của tội ác.


Phóng viên TTX Việt Nam ghi lại những hình ảnh của cuộc chiến 12 ngày đêm.

Mối hận Khâm Thiên

Trận bom rải thảm phố Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội đêm 26 tháng 12 năm 1972 đã làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em; làm cho 178 cháu mồ côi trong đó có 66 cháu mồ côi cả cha lẫn mẹ; 290 người bị thương, 2.000 ngôi nhà, trường học, đền chùa, rạp hát, trạm xá bị sập, trong đó có 534 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Ngôi nhà số 51 phố Khâm Thiên chỉ còn là một hố bom, 7 người sống trong ngôi nhà này không còn ai sống sót.

Mảnh đất này trở thành một đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ “Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ” và một bức tượng bằng đồng tạc hình một người mẹ bế trên tay đứa con đã chết vì bom Mỹ, tượng được lấy nguyên mẫu từ chính chủ nhân của ngôi nhà bị hủy diệt này. Kể từ sau trận bom ấy, hàng năm, đến những ngày kỷ niệm trận bom, người dân trên phố, và nhiều nơi khác tới đây thắp hương tưởng niệm những người đã chết vì bom Mỹ.



Một góc phố Khâm Thiên sau trận ném bom của B-52 đêm 26 tháng 12 năm 1972



Khâm Thiên sống lại. Khu phố Khâm Thiên ngày nay.

Dư luận thế giới nghĩ gì?

Chiến dịch ném bom vô nhân đạo của Hoa Kỳ đã bị phản đối vô cùng quyết liệt khắp thế giới, kể cả những nước đồng minh lâu năm, thân cận của Hoa Kỳ, dư luận nhiều nước gây áp lực để chính phủ của mình chính thức lên án cuộc ném bom. Báo Le Monde (Paris, Pháp) so sánh cuộc ném bom này với cuộc ném bom hủy diệt Guernica do Đức Quốc Xã thực hiện ở Tây Ban Nha. Tờ báo lớn nhất của Anh, the Daily Mirror, bình luận: “Việc Hoa Kỳ quay lại ném bom Bắc Việt Nam đã làm cho cả thế giới lùi lại vì ghê sợ”.

Các chính phủ Anh, Ireland, Ý và Thụy Điển đều lên tiếng. Một trong những phản ứng dữ dội nhất là của thủ tướng Thụy Điển Olof Palme, ông đã lên án cuộc ném bom là một tội ác chống loài người trên quy mô ngang với các tội ác diệt chủng của phát xít Đức tại trại tập trung Treblinka. Ông còn đích thân đến một cửa hàng tổng hợp để thu thập chữ ký cho một kiến nghị toàn quốc đòi chấm dứt ném bom, để gởi tới Nixon.


Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme dẫn đầu đoàn biểu tình đòi Mỹ chấm dứt ném bom Việt Nam.

Tại Mỹ, Nixon bị chỉ trích là “người đánh mất kiểm soát” (madman). Nhiều thành phần diều hâu từng ủng hộ cuộc ném bom trong chiến dịch Linebacker I hồi tháng 5 nay chất vấn cả sự cần thiết và tính tàn bạo nghịch thường của Linebacker II.

Năm 1972 không chỉ có một cuộc chiến ở Việt Nam, mà còn có những “cuộc chiến trong cuộc chiến”. Có “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”, có “cuộc chiến trong lòng quân đội Mỹ”, bao nhiêu người đã đào ngũ, trốn quân dịch, bắn giết nhau, lính bắn chết sĩ quan chỉ huy rồi bỏ trốn. Cuối năm đó còn có thêm “cuộc chiến trong lòng không quân Mỹ”. Trong chiến dịch Linebacker II, 16 phi công đã gởi đơn khiếu nại lên Bộ chỉ huy xin không bay; 45 gia đình gởi thơ chất vấn về trạng thái tinh thần phi công. Nhiều nơi đã xảy ra binh biến, nổi loạn.


Bất chấp những cuộc trấn áp (xả súng, thảm sát) tại đại học Kent và các thành phố ở California trước đó, nhân dân và sinh viên Mỹ vẫn xuống đường biểu tình đòi chính phủ chấp nhận ký vào hiệp định Paris.

Sau này, ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger thừa nhận: “Các thế hệ tương lai có thể khó hình dung được cơn biến động trong nước mà chiến tranh Việt Nam gây ra…. Chính cơ cấu của chính phủ đã bị tan rã. Ngành hành pháp bị choáng váng. Cuối cùng, con em của họ và con em bạn bè của họ đã tham gia các cuộc biểu tình…. Sự kiệt sức là dấu ấn của tất cả chúng tôi. Tôi phải đi từ nhà tôi, vây quanh là đám người phản đối, đến tầng dưới của Nhà Trắng để được ngủ đôi chút”.

Đại tá quân đội Liên Xô Markov Lev Nicolayevich đã nhận xét về những trận đại chiến trên bầu trời Hà Nội như thế này: “Tôi đã nghiên cứu kỹ chiến lược chiến tranh của nhiều nước và thấy rằng, trên thế giới ít có cuộc chiến nào mà bên phòng vệ thắng bên tấn công, nhất là khi có sự chênh lệch quá lớn về tiềm lực quân sự, vũ khí trang bị như giữa quân đội Việt Nam và quân đội Hoa Kỳ, đặc biệt là “siêu pháo đài bay B-52”, mà người Mỹ khoe là không thể bị bắn hạ! Vậy mà Việt Nam đã đánh thắng rất giòn giã. Đó thực sự là cuộc chiến tranh của trí tuệ với trí tuệ, thông minh “chọi” thông minh, chứ không phải là cuộc chiến tranh thông thường!”.

Ai thắng?

Sau trận đêm 26 tháng 12, số phận của chiến dịch Linebacker II đã được định đoạt, cường độ tập kích của B-52 giảm hẳn, B-52 dạt ra ngoại vi đánh Thái Nguyên và các mục tiêu hạng hai để tránh “tọa độ lửa” Hà Nội, Hải Phòng…. Tổng thống Nixon ra tín hiệu đề nghị nối lại đàm phán và ngày 30 tháng 12 đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch ném bom, quay lại đàm phán tại Paris và chấp nhận phương án cũ của hiệp định Paris mà phía Mỹ trước đó đã từ chối ký kết.

Sau trận này, khí thế của quân dân Việt Nam ở cả hai miền Nam-Bắc dâng lên rất cao. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trên thế giới đánh bại được “thần tượng B-52”. Và sau năm 1975 đến nay, với khoa học kỹ thuật công nghệ quân sự thế giới tiên tiến hơn, cũng vẫn chỉ có 1 máy bay B-52 bị bắn hạ trong chiến tranh Vùng Vịnh 1991.


Xác chiếc B-52D số hiệu 56-0605, mật danh Cobalt 02 bị bắn rơi tại hồ Hữu Tiệp (Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội), trong chiến dịch Linebacker II

Trong khi đó, chiến dịch thất bại chua cay này đã làm đau đầu giới quân sự Hoa Kỳ. Đây là chiến dịch mà phía Mỹ đã chủ động lựa chọn được địa điểm, thời điểm, phương thức chiến đấu và đặc biệt là sử dụng được sở trường của mình để chống sở đoản của đối phương (trình độ khoa học công nghệ), một cuộc đấu mà đối phương sẽ không thể sử dụng sở trường chiến tranh du kích.

Trong chiến tranh xâm lược Việt Nam, theo như nhiều tướng Mỹ đã thú thật trong hồi ký của họ sau này; Việt Nam hầu như luôn là phía quyết định đánh lúc nào và đánh tại đâu, du kích Việt Cộng giăng khắp nơi, nông thôn chỗ nào cũng có du kích, thành thị nơi nào cũng có biệt động – dân quân – tự vệ, và phía Mỹ bị động, bị Việt Nam gần như “dắt mũi” trong suốt cuộc chiến. Đây là lần hiếm hoi mà họ có thể quyết định đánh lúc nào và đánh ở đâu, nhưng họ vẫn không tránh khỏi kết quả đại bại.

Từ đâu có chiến dịch Linebacker II?Năm 1968, cuộc tổng tấn công và khởi nghĩa Mậu Thân nổ ra khắp miền Nam Việt Nam trong những vùng bị quân đội Mỹ chiếm đóng. Nhờ chiến công đó mà những năm sau Việt Nam đã áp lực được Mỹ ngồi vào bàn đàm phán Paris trên thế kém. Trước đó, phía Mỹ luôn theo đuổi chính sách “đàm phán trên thế mạnh”, đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận những tiền đề, những nguyên tắc do họ đặt ra, chấp nhận những điều kiện do họ đưa lên.


Miền Nam tổng nổi dậy năm 1968

Cuộc hội nghị ở Paris giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là để có được một giải pháp hòa bình, kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Ban đầu chỉ có đàm phán 2 bên là Việt Nam và Hoa Kỳ, về sau phát triển thành hội nghị 2 phe (Việt Nam, Hoa Kỳ) và 4 bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ, chính quyền Sài Gòn).

Lập trường của Hoa Kỳ trong thời gian đầu phù hợp với mục tiêu chiến lược và lợi ích của họ trong khu vực: Mỹ được toàn quyền ở miền Nam. Miền Bắc không được chi viện cho miền Nam. Giải tán Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Lập trường của Việt Nam trong thời gian đầu phù hợp với mục tiêu độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà: Quân đội Mỹ phải “cút” khỏi lãnh thổ Việt Nam. Người Việt Nam dù là Bắc, Trung, hay Nam đều có quyền đi, ở, đóng quân bất kỳ nơi đâu trên đất nước Việt Nam, Mỹ không có quyền can thiệp. Mỹ phải chấm dứt xâm lược và hoàn toàn chấm dứt can dự, dính líu đến việc nội bộ của Việt Nam. Ngụy quyền không được phép tồn tại và phải bị giải tán. Hà Nội là thủ đô của cả nước Việt Nam, bao gồm miền Nam Việt Nam. Mỹ phải chấm dứt chiếm đóng bất hợp pháp, phải cuốn gói về nước vô điều kiện. Ngụy quyền phải giải tán vô điều kiện, và sau đó có thể những nhân vật chóp bu ngụy quyền phạm pháp (tội phản quốc) sẽ bị xử tội theo luật pháp Việt Nam.

Với lập trường còn quá xa nhau, mục tiêu còn quá trái ngược nhau như vậy nên suốt thời gian đó, hai phe Mỹ – Việt đã không đạt thành hiệp nghị mà chủ yếu dùng bàn họp ở Paris như là một mặt trận đấu tranh chính trị, tranh luận với nhau, Mỹ lên án “Bắc Việt Nam xâm lược Nam Việt Nam”, Việt Nam lên án chiến tranh xâm lược và những tội ác Mỹ-ngụy.

Năm 1969, do thất bại trong chiến lược chiến tranh cục bộ, đặc biệt sau chiến dịch Mậu Thân, gần như cả thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ thúc ép chính phủ Mỹ sớm chấm dứt xâm lược Việt Nam và đưa lính Mỹ, đưa người thân của họ về nước.

Những thất bại quân sự và chính trị của Mỹ trong thời gian này đã tác động mạnh đến tình hình Liên bang Hoa Kỳ, tổng thống Nixon trong ngày nhậm chức tổng thống Mỹ đã phải phát biểu: “Nước Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần, mắc kẹt trong chiến tranh, cấu xé và chia rẽ nội bộ. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về mặt kinh tế, quân sự mà cả xã hội cũng như chính trị. Sự bất đồng cay đắng đã xé rách cơ cấu đời sống tinh thần nước Mỹ và bất kể kết quả chiến tranh như thế nào, vết xé rách vẫn còn lâu mới lành”.

Để cứu vãn tình hình bi đát của Mỹ trong khi các lực lượng chiến đấu của họ ngày càng lún sâu vào trong “vũng lầy Việt Nam” và ngày càng có nhiều lính Mỹ chết trận, tổng thống Nixon sau nửa năm cầm quyền đã đề ra “Chủ thuyết Nixon”, và chiến lược De-Americanization (Phi Mỹ hóa) cuộc chiến ở Việt Nam là một chiến lược cơ bản trong chủ thuyết này.


Đội hình F-4 phối hợp với A-7 không kích miền Bắc Việt Nam

Ban đầu Nixon và các cố vấn định dùng danh từ “Phi Mỹ hóa”. Nhưng sau đó bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird cho rằng danh từ này đã gián tiếp thừa nhận việc Mỹ đã xâm lược Việt Nam, thú nhận vai trò chính của Mỹ trong cuộc chiến. Do đó, ông đề nghị dùng một danh từ nào đó không đả động gì tới Mỹ. Theo đó, cái tên mới “nhẹ nhàng” hơn là Vietnamization (Việt Nam hóa) đã được sử dụng.

Cũng như chiến lược (Da) vàng hóa chiến tranh của người Pháp năm 1949 trong Chiến tranh Đông Dương, chiến lược này là một cách để dùng người Việt đánh người Việt, đẩy ngụy quân bản xứ ra đánh thay và chết thay, như những tấm bia đỡ đạn, nhằm giảm bớt thương vong cho lực lượng xâm lược. Đó cũng là quy luật chung của các cuộc chiến tranh xâm lược từ xưa đến nay trong lịch sử Việt Nam, mà trước đó các triều đại phong kiến Trung Hoa và thực dân Pháp đều đã sử dụng.

Thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh, người Mỹ muốn “vắt hết quả chanh” nguồn nhân lực người Việt ở miền Nam Việt Nam, máu của thanh niên miền Nam, nhằm phục vụ cho cuộc chiến của họ, dùng người Việt dưới sự trả lương, huấn luyện, chỉ huy của người Mỹ để giảm bớt gánh nặng cho người Mỹ.

Nói chung, “Việt Nam hóa” là sự kết hợp ba chiến lược chiến tranh của Mỹ: “Chiến tranh giành dân”; “chiến tranh bóp nghẹt” và “chiến tranh hủy diệt”. Họ muốn đạt được ba mục tiêu đó với ít tổn thất nhất cho quân nhân Mỹ, và các lực lượng ngụy quân có thể tự thân tham chiến một mình, không cần lính Mỹ ra tay, và nếu không cần cả hỏa lực Mỹ hay không quân Mỹ thì càng tốt. Họ muốn xây dựng một đội quân bản xứ hoàn toàn đủ khả năng chiến đấu thay cho quân đội viễn chinh từ chính quốc.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin R. Laird khi đó đã miêu tả chính sách này trong tài liệu công khai của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ như sau: “Phát triển, trang bị, và huấn luyện quân đội ‘Nam Việt Nam’ và phân công họ ngày càng nhiều vai trò chiến đấu hơn, đồng thời đều đặn giảm bớt số lượng của quân nhân chiến đấu Mỹ.” (“Expand, equip, and train South Vietnam’s forces and assign to them an ever-increasing combat role, at the same time steadily reducing the number of U.S. combat troops”)

Việt Nam “vừa đánh vừa đàm” với Hoa Kỳ cho đến năm 1972. Chiến cuộc năm 1972 tại Việt Nam không phải là ngoại lệ với tình trạng “vừa đánh vừa đàm”. Lịch sử Việt Nam đã từng chứng kiến những điều tương tự xảy ra trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông của nhà Trần (thế kỷ XIII) và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (đầu thế kỷ XV).

Mật độ sử dụng không quân của Hoa Kỳ trong năm 1972 tại miền Bắc Việt Nam vượt xa chiến tranh Triều Tiên, chỉ kém chiến tranh thế giới thứ hai. Chỉ trong 9 tháng, máy bay Mỹ đã rải xuống Bắc Việt Nam 210.000 tấn bom. Trong chiến dịch Linebacker II, nếu tính số lượng bom trong một ngày thì có thể bằng các cuộc ném bom xuống nước Đức cuối Thế chiến II; nhưng xét khu vực hạn chế đường kính 100 dặm quanh Hà Nội thì có thể thấy rằng chưa bao giờ có nhiều bom được ném xuống một khu vực trong thời gian hạn chế như vậy.


Áp giải phi công Mỹ

Đến giữa năm 1972, gã khổng lồ “chú Sam” bắt đầu “mỏi chân”, nên họ đẩy mạnh quá trình “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Đông Dương hóa chiến tranh”, tăng cường xây dựng, phát triển, trang bị, huấn luyện ngụy quân. Họ muốn đẩy quá trình phi Mỹ hóa lên cao nhất: Mỹ sẽ rút các đơn vị chiến đấu. Ngụy quân hoàn toàn đánh thay Mỹ. Từng bước biến những trận đánh giữa người Việt và người Mỹ trở thành những trận đánh giữa người Việt với nhau. Tương đồng với những gì thực dân Pháp đã làm từ năm 1949 với chiến lược “Vàng hóa chiến tranh” với ít thành công hơn.

Họ muốn dùng người Việt đánh người Việt, “thay màu da trên xác chết”. Nguyên văn câu nói của đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker, làm việc ở Việt Nam từ năm 1967 đến 1973, về chương trình Việt Nam hóa chiến tranh là: “Thay đổi màu xác chết” (“Changing the color of the corpses”).

Tại sao Mỹ ký xong rồi lại phá hoại hiệp định Paris?

Trước thực tiễn mới và theo kế hoạch nói trên, Mỹ cũng đã thay đổi mục tiêu trong hội nghị Paris. Nếu trước đó mục tiêu của Mỹ là quân đội Mỹ có toàn quyền ở miền Nam Việt Nam và quân đội Việt Nam phải rút về miền Bắc, thì bây giờ mục tiêu của quân đội Mỹ là làm sao cho Việt Nam để yên cho họ rút quân êm đẹp. Đồng thời vẫn duy trì yêu cầu quân đội Việt Nam phải rút về miền Bắc, giải tán Mặt trận và chính quyền Tây Ninh.

Như vậy, mục tiêu của Mỹ trong lúc này là rút thực binh, cứu vãn mạng sống của quân viễn chinh, đẩy mạnh hơn nữa quá trình Phi Mỹ hóa – Việt Nam hóa chiến tranh. Do đó họ mới thỏa hiệp, nhượng bộ nhiều vấn đề và chấp nhận ký vào hiệp định Paris, thực tế là để đổi lấy việc Việt Nam không cử binh đánh mà để yên cho họ rút quân số lượng lớn.

Sau khi Hoa Kỳ đã đạt được mục tiêu đó, hoàn thành việc rút quân mà không mất giọt máu nào, thì vai trò thực tế của hiệp định Paris đến đó là hết. Mỹ tích cực hậu thuẫn, cung cấp tiền bạc, vũ khí, hướng dẫn, và lệnh cho Thiệu “tiên hạ thủ vi cường” (đánh trước chiếm ưu thế), bất ngờ đánh mạnh, lấn chiếm nhiều vùng giải phóng, nhằm giành cho được thế thượng phong, trong khi quân đội Việt Nam được lệnh phải án binh bất động, chờ xem tình hình.

Vậy tại sao trước khi ký vào hiệp định, Mỹ còn ném bom miền Bắc?

Chính trị là vấn đề biến ảo khôn lường, thiên biến vạn hóa. Mặc dù Mỹ rất muốn Việt Nam để yên cho họ rút quân an lành, và họ chỉ cần ký vào hiệp định là đạt được mong muốn đó. Nhưng họ vẫn còn danh dự, uy thế, “thương hiệu” của một đại cường quốc. Để bảo vệ danh dự, hình ảnh Hoa Kỳ, và bảo vệ lợi ích của họ trong cuộc chiến, họ muốn buộc Việt Nam cũng phải nhượng bộ bằng cách rút về vĩ tuyến 17 các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam.


Áp giải phi công Mỹ

Chiến dịch Linebacker II oanh tạc miền Bắc và thủ đô Hà Nội chính là để ép Việt Nam chấp nhận điều đó, cũng như một số điều khác của họ trong hội nghị Paris. Sau khi chiến dịch bị phá sản, Mỹ không còn cách nào khác ngoài việc chấp nhận bản dự thảo tháng 10 mà trước đó họ đã “làm giá” và “từ chối”, và ký hiệp định chính thức. Giáo sư Guenter Lewy, trong cuốn sách “Mỹ ở Việt Nam”, xuất bản năm 1978, đã cho biết: “Chiến dịch Linebacker 2 không thể vắt ra được những nhượng bộ quyết định nào của Việt Nam”.

Một số người thuộc chính phủ Sài Gòn tự an ủi rằng Mỹ làm như vậy là để làm vui lòng Nguyễn Văn Thiệu. Đây là lập luận phi lý. Người Mỹ không lãng phí nhân mạng, tiền bạc, máy bay, vũ khí và thời gian, tốn nhiều công sức, liều đánh tới như vậy, tốn kém, tổn thất đến như vậy chỉ để làm vui lòng một nhân vật mà họ không coi ra gì. Trong thời điểm đó Nixon đã tỏ ra không bằng lòng với Thiệu và nói nhiều câu với Kissinger cho thấy sự coi thường: “Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận ký vào.” “Tôi sẽ cắt đầu nó nếu cần thiết.” “Không thể để có cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được”.

Theo tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của Ngụy Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong cuốn “Hồ sơ mật Dinh Độc Lập” (The Palace File) xuất bản năm 1986 thì trong thời điểm đó Mỹ đã nhiều lần gởi thơ yêu cầu, bắt buộc, và đe dọa (kể cả việc nhắc lại vụ hạ sát Ngô Đình Diệm nhằm đe dọa tính mạng Thiệu) Thiệu phải ký vào hiệp định.


Quân đội Mỹ cuốn gói về nước dưới sự kiểm tra, giám sát của Quân đội Nhân dân Việt Nam (1973).

Bản chất của hội nghị Paris là gì?Bản chất của hội nghị Paris ban đầu là để đôi bên đạt được mục đích tối cao của mình. Việt Nam muốn “Mỹ cút ngụy nhào”. Mỹ thì muốn có toàn quyền sinh sát ở miền Nam Việt Nam, quân đội Việt Nam phải rút về Bắc, kháng chiến miền Nam bị giải tán.

Đến năm 1972, trước sự thắng thế của Việt Nam và sự thất thế, sa lầy của Hoa Kỳ, mục tiêu của họ lúc này là rút quân yên lành, giữ cho được và củng cố ngụy quyền. Như vậy, thực tế lúc này Việt Nam và Hoa Kỳ đã có một điểm chung quan trọng, đó là cả hai đều muốn quân đội viễn chinh rút khỏi. Và Việt Nam “cầu còn không được”, đã tạo điều kiện cho Mỹ làm việc đó.

Cả hai phe đều nhượng bộ vấn đề chấp nhận sự tồn tại của 2 chính quyền ở Tây Ninh và Sài Gòn như là một thực thể chính trị ở miền Nam Việt Nam. Điều này không có nghĩa hai phe công nhận sự chính danh của chính quyền Sài Gòn và chính quyền Tây Ninh với tư cách của một quốc gia, nhà nước. Lập trường ban đầu là hai phe đều không chấp nhận sự tồn tại “đồng minh” của nhau và yêu cầu “đồng minh” đó phải giải tán vô điều kiện.

Mỹ chấp nhận rút quân và đề nghị Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam Việt Nam cũng làm điều đó. Song Việt Nam luôn có nguyên tắc bất biến: Người Việt Nam có quyền đi đến bất kỳ nơi đâu trên đất nước Việt Nam, bác bỏ lời đề nghị rút quân của Mỹ. Đây là vấn đề mà Việt Nam coi là một vấn đề mang tính nguyên tắc và không nhượng bộ, thậm chí không chấp nhận bàn về vấn đề đó. Và cuộc chiến ở Hà Nội nổ ra là tất yếu, Mỹ muốn ép Việt Nam phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, để Mỹ rảnh tay hơn, dễ dàng hơn trong việc củng cố ngụy quyền, huấn luyện ngụy quân, củng cố chế độ thuộc địa kiểu mới ở miền Nam Việt Nam, và cũng để Mỹ bảo vệ được phần nào danh dự cường quốc của họ.


Richard Nixon, Gerald Ford, Henry Kissinger và Alexander Haig tại Nhà Trắng năm 1973

Nhìn chung, chiến dịch Linebacker II xảy ra nhằm ép bức Việt Nam phải chấp nhận rút các đơn vị quân đội từ miền Bắc phải trở về. Chấp nhận luật chơi quân đội Mỹ rút thì Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng phải rút. Và miền Nam chỉ còn lại chính phủ cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam, quân Giải phóng, và chính quyền, quân đội Sài Gòn.

Nói cụ thể hơn là họ muốn Việt Nam phải thay đổi bản dự thảo tháng 10, chủ yếu là nhượng bộ và chấp nhận điều khoản trước đó do họ đề xướng là QĐNDVN phải rút về Bắc. Nhưng Việt Nam chỉ chấp nhận nguyên tắc 1 nước Việt Nam: Các lực lượng nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. “Ông là người nước ngoài thì ông đi khỏi nước tôi. Còn đây là nhà tôi, tôi ở lại nước tôi, nhà tôi thì tôi muốn đi đâu thì đi. Tôi không bàn với ông chuyện tôi ở đâu trên đất nước tôi. Cũng như ông không bàn với tôi chuyện ông ở đâu trên đất Mỹ.”.

Với góc nhìn trịch thượng của kẻ mạnh, của kẻ quen thói diều hâu bá quyền, đậm chất thực dân của họ, thì một khi Mỹ đã “nhượng bộ” thì Việt Nam cũng phải nhượng bộ, Mỹ đã rút quân khỏi miền Nam thì Việt Nam cũng phải rút quân khỏi miền Nam. Việt Nam không làm vậy thì có nghĩa là Việt Nam không tôn trọng Mỹ, thậm chí là “trèo lên đầu lên cổ” người Mỹ. Nhiều phần tử diều hâu cho đó là một nỗi quốc sỉ cho quốc thể Hoa Kỳ, cho nên chiến dịch Linebacker II xảy ra là điều phải đến.

Bản chất của hiệp định Paris là gì?

Hiệp định này thực tế để bảo đảm cho việc Hoa Kỳ rút quân bình yên ra khỏi Việt Nam, và lúc đó sẽ không có chiến dịch quân sự từ Việt Nam. Nếu ai đã từng đánh nhau với người khác đều minh bạch rằng trong lúc đánh nhau không dễ nói chạy là chạy, đặc biệt trong trường hợp đang yếu thế hơn thì càng không thể nói chạy là chạy được. Chỉ cần quay đầu, quay lưng là bị nốc-ao ngay. Muốn chạy thì phải có khoảng cách an toàn nào đó hoặc đạt được thỏa thuận với đối phương.

Các danh tướng thời xưa, trong buổi đầu sơ khai nhất của nghệ thuật chiến tranh, cũng biết đạo lý này. Vị tướng nào đào tẩu thì đều cẩn thận dò trước ngó sau, gài lại phục binh chặn truy kích. Những tướng tài giỏi hơn thì biết dùng kế nghi binh, ngụy tạo số lò bếp v.v. để làm cho địch nghi ngờ không dám đuổi theo hoặc chậm trễ truy kích. Thời Tam quốc bên Trung Quốc, danh tướng Lục Tốn của Đông Ngô đã dùng nghi binh kế khiến cho sau 3 ngày lui quân thì quân Bắc Ngụy mới phát hiện ra doanh trại địch trống rỗng không còn một bóng người.

Trường hợp của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam cũng vậy, nếu trong lúc hàng chục vạn quân Mỹ đang tụ tập dồn cục lo rút đi mà Việt Nam mở chiến dịch quân sự ngay lúc đó thì sẽ có đổ máu lớn. Trước đó Việt Nam cũng đã chứng tỏ được là họ có khả năng đánh ở bất kỳ nơi nào ở miền Nam Việt Nam, kể cả đầu não Sài Gòn, kể cả tòa đại sứ Mỹ, và đánh rất bất ngờ, khó lường.


Hai phía Mỹ – Việt ký vào hiệp định Paris

Nhiều cựu quân nhân Mỹ ngày nay cho rằng bản chất của hiệp định là một sự nhượng bộ và nhịn nhục của người Mỹ, như một cú đấm vào “niềm tự hào Hoa Kỳ” của họ, như một mũi tên bắn vào thần ưng, biểu tượng quốc gia của họ. Họ cho rằng họ phải rút đi mà không đổi lại được gì, lực lượng quân đội có tổ chức lớn từ miền Bắc vẫn ở miền Nam, và quân dân miền Nam cũng không giải tán. Trong khi những “nhượng bộ” của Việt Nam thì Mỹ đều không có khả năng và điều kiện để giám sát, kiểm tra, áp chế, thi hành.

Hai nhượng bộ đáng kể của Việt Nam là việc trao trả tù binh Mỹ-ngụy. Và việc chấp nhận sự tồn tại trong hòa bình của ngụy quyền Sài Gòn như là một trong các thành phần chính trị ở miền Nam Việt Nam, được quyền đứng gần ngang hàng với Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Từ lập trường coi Ngụy Sài Gòn như là một đám ô hợp cần giải tán ngay, không chấp nhận sự tồn tại của họ như là một trong những thành phần chính trị, thì đã chuyển thành chấp nhận sự tồn tại của họ như một thành phần chính trị, coi họ gần ngang hàng với chính quyền Tây Ninh và “thành phần thứ ba”. Việt Nam cũng đồng ý cho Thiệu tham gia bầu cử trong chính phủ liên hiệp 3 thành phần trong cuộc tổng tuyển cử quy định trong hiệp định Paris, cùng với người của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và “thành phần thứ ba”.

Đây là một nhượng bộ lớn, bởi vì theo luật pháp Việt Nam thì Ngụy Sài Gòn là một tổ chức phản quốc theo giặc. Nếu chiếu theo các nguyên tắc và tiêu chí ngày nay thì có thể xem là một tổ chức khủng bố, mạo xưng bất hợp pháp các “quốc hội”, “nhà nước” lên trên một Nhà nước Việt Nam đã có sẵn từ năm 1945 và Quốc hội khóa 1 từ năm 1946, càn quét, khủng bố trắng nhân dân, thảm sát thường dân, toa rập, đồng lõa, tiếp tay cho Mỹ dùng bom đạn khủng bố, thảm sát nhân dân, rải bom và chất độc hóa học xuống những khu vực dân sự, hàng trăm vụ thảm sát đã xảy ra trong vùng tạm chiếm ở miền Nam….

Như vậy, vì mục tiêu đại cuộc mà Việt Nam trong thời điểm đó đã đành phải tỏ ra xem những người miền Nam cứu nước với những người theo giặc phản bội Tổ quốc là “bằng nhau”, “ngang nhau”, đó là những nhượng bộ rất lớn, cả về nguyên tắc lẫn luật pháp, đạo lý.


B-52, “quái vật điện tử” được xem là “không thể bắn trúng” rụng ngày một nhiều khi bay từng đàn, từng đàn vào lò lửa Hà Nội

Hiệp định này đã đem lại sự “danh chính ngôn thuận” cho các đội quân viễn chinh mệt mỏi của Hoa Kỳ rút khỏi chiến trường. Phần nào giữ được danh dự nước lớn của Hoa Kỳ. Còn đối với Việt Nam thì hiệp định này đã góp phần đạt được mục tiêu đầu mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: “Đánh cho Mỹ cút”. Sau đó, theo hiệp định, sẽ có một cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam Việt Nam để thành lập chính phủ ba thành phần ở miền Nam Việt Nam (chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn và “lực lượng thứ ba” bao gồm những thành phần trung lập, muốn hòa bình và thống nhất bằng biện pháp ôn hòa).

Nhưng cũng như việc phá hoại cuộc tổng tuyển cử toàn quốc theo hiệp định Genève 1954, Mỹ lại phá hoại cuộc tổng tuyển cử ở miền Nam theo hiệp định Paris 1973. Sau khi quân đội Mỹ đã về nước, không còn phải lo đến nhân mạng binh sĩ và áp lực từ Quốc hội, chính trường, dư luận nhân dân, thì chính phủ Mỹ lập tức phản bội hiệp định, đưa Thiệu ra phát ngôn quá khích và phá hoại hiệp định.


Lê Đức Thọ và Henry Kissinger sau khi ký kết hiệp định Paris 1973

Mỹ-Thiệu đã phá hoại hiệp định Paris như thế nào?

Trong các thỏa thuận giữa hai phe và các điều khoản trong hiệp định, Mỹ chỉ thực hiện nghiêm chỉnh điều khoản rút quân. Còn ngoài ra tất cả các điều khác họ đều phớt lờ, phá hoại, hoặc thi hành không nghiêm chỉnh.

Nhà báo, nhà sử học người Mỹ Gabrien Côncô, tác giả cuốn sách “Giải phẫu một cuộc chiến tranh” do Nhà xuất bản Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, cho biết trước khi hiệp định Paris được ký kết thì Nixon đã liên tiếp gởi thơ cho Thiệu mà ở đó Mỹ đã bắt Thiệu ký vào hiệp định. Và sau khi hiệp định đã được ký kết thì thì họ cho Thiệu mọi phương tiện để vi phạm hiệp định, bằng việc cam kết tiếp tục trợ cấp đầy đủ về kinh tế và quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; Mỹ công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là “chính quyền hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt Nam”; không thừa nhận chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam như đã thỏa thuận trong hiệp định Paris.

Mỹ-ngụy trước khi hiệp định Paris được ký kết, đã chấp nhận yêu cầu của Việt Nam về một cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ ở miền Nam để thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần, từng bước tiến tới thống nhất nước nhà trong hòa bình (như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau này đã thực hiện nghiêm chỉnh năm 1976). Rốt cuộc, không có cuộc tổng tuyển cử nào diễn ra được.

Trước đó, Thiệu lên đài phát thanh bác bỏ nguyên tắc một nước Việt Nam thống nhất: “Bắc Việt Nam là Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam là Nam Việt Nam, mọi người phải chấp nhận thực tế là tồn tại hai nước Việt Nam, không bên nào được xâm lược bên nào”.

Sau khi Mỹ đã thành công rút quân về nước, Nixon liền ra tuyên bố cho biết Mỹ sẽ không ủng hộ cuộc tổng tuyển cử dân chủ ở miền Nam Việt Nam và sẽ làm những gì có thể để giữ ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu không sụp đổ. Nguyễn Văn Thiệu công khai tuyên bố lập trường 4 không: Không liên hiệp; Không thương lượng với đối phương; Không có hoạt động của cộng sản hoặc đối phương trong nước; Không để lọt vào tay đối phương bất cứ lãnh thổ nào, tiền đồn nào và khẳng định “không có hòa bình với cộng sản”, “phải xóa thế da beo”, “bắn bỏ những ai chứa chấp cộng sản”.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp thảo luận với các đồng chí và sau đó đã duyệt phương án đánh B-52 của Bộ tư lệnh Phòng không – Không quân.

Trong hồi ký “Tổng Hành Dinh trong Mùa xuân toàn thắng”, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết về chiến dịch Linebacker II của Hoa Kỳ như sau:

“Sau khi ra lệnh ném bom vào dịp Quốc hội Mỹ đang kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, Níchxơn lánh mặt đi nghỉ ở Kibiscâynơ, bang Florida, tránh các nhà báo và công luận Mỹ. Thế nhưng “chạy trời không khỏi nắng”. Búa rìu dư luận đã giáng xuống đầu bọn xâm lược, đòi chúng phải chấm dứt ngay cuộc diệt chủng ở Việt Nam.

Hành động tàn bạo của Níchxơn trùm bóng đen lên ngày lễ Giáng sinh, khiến lương tâm của cả loài người nổi giận. Chưa bao giờ làn sóng phản đối chiến tranh của đế quốc Mỹ lại bùng lên dữ dội như những ngày này trên khắp hành tinh và ngay tại nước Mỹ. Các nhà lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa ra tuyên bố kịch liệt lên án hành động xâm lược mới của Mỹ, khẳng định sự ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Các đảng cộng sản và công nhân phẫn nộ tố cáo tội ác của Mỹ, kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi hoà bình cho Việt Nam. Ở khắp nơi trên thế giới, hàng triệu người xuống đường sôi sục biểu tình lên án mạnh mẽ hành động tội ác ghê tởm của Nhà Trắng. Các nghị, sĩ Quốc hội Mỹ ở cả hai viện chỉ trích gay gắt hành động leo thang mới của Níchxơn đã tiến hành mà không tham khảo ý kiến Quốc hội và nhân dân Mỹ. Tờ Thời báo Niu Yoóc, ngày 20-12-1972, cảnh cáo “Mỹ có nguy cơ trở lại một kiểu dã man của thời kỳ đồ đá?”. Duy nhất chỉ có bè lũ Nguyễn Văn Thiệu là hí hửng, vui mừng. Hãng AP (Mỹ) ngày 19-12 đưa tin “một quan chức cao cấp của Nam Việt Nam cho rằng cuộc tiến công trở lại vào vùng trung tâm của Hà Nội và Hải Phòng là để khuyến khích chúng tôi”… rằng “việc này chứng tỏ Mỹ không bao giờ bỏ rơi chúng tôi”, và nhắc lại lời của Thiệu tháng 8-1972 van xin Mỹ “ném bom cho tan nát miền Bắc Việt Nam(!)”. Xấu xa đến mức báo Nhân đạo (L Humamté) ở Pháp đã bình luận: “Ngay như trước đây, trong hồi Chiến tranh thế giới thứ hai, những tên Pháp gian như Đôriô cũng không dám đề nghị “đồng minh” tàn phá Paris. Thế mà nay Thiệu lại mong muốn Mỹ ném bom tàn phá đất nước mình. Thiệu thật đáng xấu hổ hơn cả sự xấu hổ!”.

Thiệu đã có những phát ngôn vô cảm, nhẫn tâm, độc ác, và lộ rõ bản chất phản quốc. Trong lịch sử chưa từng ghi nhận một kẻ bán nước nào lại đủ sự tàn độc và xấu xa để thốt lên được những lời lẽ sặc mùi phản dân hại nước đến cấp độ đó, dù là Trần Kiện, Trần Ích Tắc, hay Lê Chiêu Thống.

Mặc dù có cầu ngoại viện, để mong “giúp” đưa mình lên ngai vàng, nhưng họ chưa bao giờ xin “đồng minh” Hốt Tất Liệt và Nguyên Mông, Càn Long và Mãn Thanh phá hủy Thăng Long. Còn Thiệu thì công khai xin Nixon và Hoa Kỳ phá hủy Hà Nội.

Mặc dù trước đó Việt Nam bị chia đôi thành Đàng Ngoài và Đàng Trong hơn 100 năm nhưng Lê Chiêu Thống chưa bao giờ dám tuyên bố xanh rờn “Bắc Hà là Bắc Hà và Nam Hà là Nam Hà, mọi người phải chấp nhận thực tế là tồn tại hai nước Đại Việt, Tây Sơn phải rút về Nam Hà, không bên nào được xâm lược bên nào” như Nguyễn Văn Thiệu đã phát biểu.


Vị trí của “Trạm Yankee”, nơi đậu các tàu sân bay Hoa Kỳ trên Biển Đông

Chữ ký của Hoa Kỳ và chữ ký bất đắc dĩ của ngụy quyền Sài Gòn còn chưa khô mực vào hiệp định có những nội dung sau thì họ đã mau chóng “lật kèo”:

– “Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã quy định trong hiệp định Genève 1954.”

Những hành động phá hoại hiệp định kể trên đã không cho thấy điều đó.

– “Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, “cố vấn” và chuyên viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.”

Mỹ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ và nắm chính trị, quân sự, kinh tế ở miền Nam. Tiếp tục cung cấp vũ khí và tiền bạc cho Nguyễn Văn Thiệu. Duy trì chế độ thực dân mới. Rút đại quân nhưng để lại hàng vạn “cố vấn” và chuyên gia quân sự mặc thường phục, khắp miền Nam vẫn đầy người Mỹ.

Sau năm 1973, lính Mỹ có quay lại Việt Nam trong các đợt rời rạc, đặc biệt là lính Thủy quân lục chiến. Việc quân chính quy Mỹ rút đi và chấm dứt các chiến dịch quân sự trực tiếp do thực binh Mỹ tiến hành không có nghĩa sau năm 1973 không còn người lính Mỹ nào ở Việt Nam. Mỹ cam kết trong hiệp định rằng sẽ phá đổ các căn cứ quân sự Mỹ, nhưng họ đã “hứa lèo” và chuyển giao nó lại cho quân đội Sài Gòn.

– “Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền (chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn), hai quân đội (Quân Giải phóng miền Nam và quân đội Sài Gòn), hai vùng kiểm soát (vùng giải phóng và vùng tạm chiếm) và ba lực lượng chính trị (Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn, lực lượng thứ ba).”

Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử, và cuộc bầu cử đã không bao giờ diễn ra được. Họ không từ bỏ ý định duy trì chủ nghĩa thực dân mới đối với miền Nam Việt Nam, cố gắng bám víu, sử dụng nơi đây như một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ và là một thuộc địa kiểu mới. Họ đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân trên quy mô lớn. Mỹ đã tăng cường cung cấp quân sự và chu cấp kinh tế cho tay sai, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy chiến tranh với hàng vạn “cố vấn” và nhân viên quân sự người Mỹ đội lốt dân sự. Họ hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể xây dựng và củng cố được một chế độ thực dân mới ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài Việt Nam.

Hoa Kỳ đã phá hoại tổng tuyển cử theo hiệp định Genève 1954 sau 2 năm. Nếu như khi đó Hoa Kỳ ngụy biện đổ cho mình và ngụy quyền Bảo Đại của Pháp không ký vào đó nên “không cần” thi hành (hiệp định có giá trị trên lãnh thổ đó thì chính quyền nào cũng phải thi hành, Mỹ-Bảo Đại-Diệm “thừa kế” từ Pháp thì phải thi hành dù có ký hay không), thì lần này Mỹ và ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu có ký vào hiệp định và ngay sau khi rút quân thành công đã bội ước ngay. Có thể nói đây là một sự lật lọng nhanh chóng, ngang ngược và trắng trợn hiếm thấy trong lịch sử chính trị thế giới.

– “Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.”

Hàng vạn tù binh và dân thường Việt Nam đến sau ngày 30/4/1975 mới được tự do. Trước ngày 30/4 các tù nhân, tù binh phía Việt Nam vẫn đầy ở Côn Đảo, Phú Quốc và nhiều nơi khác, không hề được trao trả theo hiệp định.

oOo

Sau chuyến đi Mỹ gặp Nixon thì Thiệu lại càng quá khích hơn, phá hoại hiệp định Paris một cách bài bản và có hệ thống, đặc biệt là bóp nghẹt mọi quyền tự do được quy định trong điều 11: Quyền đi lại làm ăn sinh sống, bị hạn chế, kiểm soát, tự do tín ngưỡng bị xúc phạm, kỳ thị, nhất là với giới tăng ni Phật tử. Danh từ “sư Việt Cộng” được báo chí Sài Gòn tận dụng để “chụp nón cối” các tăng ni. “Noi gương” thời Mỹ-Diệm, thấy đất chùa nào muốn cướp thì vu cho là “Việt Cộng nằm vùng”, “chứa chấp Cộng Sản”, “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản”, gán ghép chụp mũ vu khống vô tội vạ. Những người bị tình nghi thân cộng đều bị đặt máy nghe lén, theo dõi, cấm đoán, bắt cóc, bắt bỏ tù, tra khảo, đập chết trong nhà tù, đày ra Côn Đảo – Phú Quốc, đàn áp khốc liệt.

Riêng ở miền Tây Nam Bộ và một số vùng, thời kỳ này Thiệu vi phạm lộ liễu hiệp định Paris, lệnh ngừng bắn không được thực hiện, trái lại Thiệu cho xuôi quân bắn giết, đốt phá và lấn chiếm vùng giải phóng, bành trướng mở rộng vùng tạm chiếm. 75 tiểu đoàn ngụy, máy bay, xe tăng, vũ khí hiện đại tập trung tấn công ồ ạt vào Cần Thơ, Vị Thanh, Long Mỹ, tiến tới tấn công U Minh, lấn chiếm toàn bộ miền Tây.

Họ ra sức kềm kẹp cấm đoán mọi quyền của dân, không cho quần chúng trở về ruộng vườn cũ, không cho đi lại làm ăn – thực hiện chính sách “tát nước bắt cá”, để tiêu diệt cách mạng, dồn dân vào các trại tập trung. Đồng thời tuyên truyền xuyên tạc hiệp định, gây hoài nghi trong quần chúng, bảo rằng Việt Cộng đã thua Mỹ nên phải ký hiệp định Paris, cấm đoán quần chúng không cho tổ chức mừng hòa bình, bắt học thuộc lòng 10 điều phải làm, 10 điều bị cấm.

Nếu như năm 1956 Mỹ-Diệm phá hoại tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam là vì CIA thăm dò dư luận và biết rằng Hồ Chí Minh sẽ thắng chắc, thì năm 1973 Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử thống nhất miền Nam (hợp nhất vùng giải phóng và vùng tạm chiếm), thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần là vì chính phủ Mỹ, Thiệu, CIA biết lòng dân ủng hộ Mặt trận, Thiệu bị chống khắp nơi, kể cả từ những đảng phái chống cộng, thân Mỹ, ghen ghét vì Thiệu được Mỹ sủng ái.

Thiệu cũng bị chống rất gay gắt từ “thành phần thứ ba” (trung lập giữa cộng sản và tư bản, không phải là cán bộ cộng sản, chống Mỹ-Thiệu, ủng hộ thống nhất – độc lập – hòa bình, yêu cầu quân đội nước ngoài rời khỏi VN), và Thiệu cũng bị chống bởi nhiều đồng bào Phật tử, giáo phái, thậm chí các tín đồ Thiên Chúa giáo cũng không ưa Thiệu vì họ trung thành với nhà Ngô. Thiệu là một trong những tay đầu sỏ trong cái gọi là “Hội đồng Quân nhân Cách mạng” do Mỹ giật dây năm xưa, đảo chính và hạ sát anh em nhà Ngô.

Mỹ-Thiệu cũng nghi ngờ và cáo buộc rằng “thành phần thứ ba” thực chất cũng đã đi theo Việt Cộng từ lâu, hay ít nhất là có cảm tình với Việt Cộng, do Việt Cộng lãnh đạo, cho nên chính phủ ba thành phần chẳng khác nào “hai đánh một”.

Với tình hình Thiệu bị mọi phe phái, đối thủ chính trị ở miền Nam, với đủ mọi màu sắc, xu hướng chính trị, chống đối quyết liệt, thì việc tham gia bầu cử để hy vọng có một chân trong chính phủ ba thành phần, mà hai thành phần một bên là Mặt trận, một bên là “lực lượng thứ ba” vốn cũng đã “ghét cay ghét đắng” Thiệu, chẳng khác nào là một sự “mơ giữa ban ngày”. Với tình hình đó mà Thiệu chấp nhận bầu cử thì Thiệu sẽ không còn gì cả.

Mỹ và Thiệu hiểu rằng nếu bầu cử một cách đàng hoàng, không dàn dựng như những cuộc “bầu cử phiếu xanh phiếu đỏ”, “tranh cử đối lập cuội” trước đây, có sự giám sát của các tổ chức, đoàn thể trung lập trong nước và quốc tế, thì Thiệu sẽ chẳng “xơ múi” được gì. Số phận của Thiệu có lẽ cũng sẽ không khác gì với Bảo Đại, Việt Quốc, Việt Cách trong chính phủ liên hiệp nhiều thành phần của Việt Minh trước đây. Sớm muộn gì rồi tất cả cũng sẽ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Do đó, việc Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử cũng là điều không quá gây ngạc nhiên, là điều nằm trong dự liệu của Việt Nam.

Việc Mỹ-ngụy viện đủ lý do để không chấp hành tổng tuyển cử ở miền Nam để thành lập chính phủ ba thành phần, cũng như các điều khoản khác, và sau đó phá hoại, không coi hiệp định Paris ra gì, đã làm cho giải pháp hòa bình ở miền Nam Việt Nam và giải pháp thống nhất Việt Nam trong hòa bình vào năm 1973 đã bị vô hiệu hóa và không còn ý nghĩa gì. Hiện thực mới này đã buộc những vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam phải chiến đấu tự vệ trước nhiều đợt càn quét mới của ngụy quân, và Việt Nam đã tiến hành phản công, tiến tới mục tiêu dứt điểm: “Đánh cho ngụy nhào”, theo lời dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh.

 Bác Hồ đọc thơ chúc xuân năm 1968 và 1969

Bản chất và vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là gì?Thiết kế chính trị của một chế độ XHCN luôn có Đảng và Mặt trận. Đảng trên nguyên tắc là lực lượng tiền phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lãnh đạo đất nước. Còn Mặt trận trên nguyên tắc là một mặt trận đoàn kết dân tộc, đoàn kết các giai cấp để cùng nhau thực hiện mục tiêu hiện tại của Đảng. Mặt trận ở Việt Nam trong lịch sử hiện đại có nhiều tên gọi, trong đó có 3 tên gọi được nhiều người biết tới: Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra trước khi có Việt Minh còn có Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Dân tộc Thống nhất….

Đây là những Mặt trận khác nhau về tên gọi và mục tiêu trong từng thời kỳ, nhưng có cùng 1 bản chất, cùng 1 vai trò với các nhiệm vụ khác nhau. Nhiệm vụ của Mặt trận Việt Minh là đoàn kết dân tộc để chống Pháp trên toàn quốc. Nhiệm vụ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đoàn kết dân tộc (nhất là các phe phái ở miền Nam) để chống Mỹ trên phạm vi miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi thành phần, tầng lớp, trong và ngoài nước, để cùng nhau kiến thiết đất nước.

Các chế độ XHCN khác ở Liên Xô, châu Âu, Trung Quốc, Cuba, Triều Tiên, Lào…. đều có những Mặt trận như thế. Trung Quốc có Mặt trận Dân Minh (Trung Quốc Dân chủ Đồng minh), đoàn kết lại các đảng phái dân chủ ở Trung Quốc như Nông Công Đảng (Đảng dân chủ nông công Trung Quốc), Trí Công Đảng (Đảng trí công Trung Quốc)…. Bắc Triều Tiên có Mặt trận Dân chủ Thống nhất Tổ quốc, đoàn kết các chính đảng ở nước này như Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Dân chủ Xã hội Triều Tiên, Đảng Thanh hữu Thiên đạo (giáo phái)…. Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội của Việt Nam trước khi tự giải tán cũng nằm trong Mặt trận Tổ quốc.

Mặt trận chính thức hoạt động ở miền Nam Việt Nam vào năm 1960, lấy tên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có nhiệm vụ đoàn kết các tầng lớp nhân dân, giai cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và các nhân sĩ trí thức yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị, để đấu tranh chống Mỹ-Diệm, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập (nghĩa là không mang màu sắc ý thức hệ), tiến tới thống nhất nước nhà.

Bài ca Giải phóng miền Nam của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, bài hát chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa miền Nam Việt Nam.


Một chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam đứng dưới lá cờ chính thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, cũng như các Mặt trận trước đó và sau này, là các tổ chức chính trị – xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện các nhiệm vụ đoàn kết toàn dân để đạt mục tiêu chính trị do Đảng đề ra trong từng thời kỳ khác nhau. Các tên gọi của Mặt trận tương xứng với các nhiệm vụ trong thời kỳ đó.

Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thời đó còn được một số người gọi là chính quyền Tây Ninh, chính phủ Tây Ninh, là một chính thể cách mạng lâm thời do Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam thành lập vào năm 1969, sau khi Mỹ bắt đầu thực hiện kế hoạch “Phi Mỹ hóa – Việt Nam hóa chiến tranh”, đây là chủ bài của Việt Nam để đối phó với quân bài “Việt Nam Cộng hòa” của Mỹ trên bình diện pháp lý quốc tế, đặc biệt trong trường hợp Mỹ muốn “lấy thịt đè người”, dùng ngụy quyền của mình để ngụy tạo “số đông” 2 chọi 1 trên bàn đàm phán.

Rút kinh nghiệm trong hội nghị Genève về Đông Dương, khi Việt Nam ban đầu chỉ có 1 mình, trong khi phe Pháp thì có Pháp và chính quyền Bảo Đại (Quốc gia Việt Nam, còn gọi là “chính phủ Quốc gia”). Phần lớn vì nguyên nhân đó, và cũng vì tin tưởng đồng minh Liên Xô và Trung Quốc, nên Việt Nam đã cho hai đồng minh vào tham gia đàm phán để củng cố thế mạnh đàm phán của mình.

Không ngờ sau đó Trung Quốc đi đêm với Pháp – Mỹ và trở giáo, nên hiệp định Genève không đạt được thắng lợi như mong muốn và không tương xứng với thắng lợi Điện Biên Phủ chấn động địa cầu của Việt Nam. Theo hiệp định Genève 1954, thực dân Pháp không cần phải rút ngay, thay vào đó là rút dần trong hai năm, và phải chờ đợi đến hai năm sau mới tổ chức tổng tuyển cử hy vọng thống nhất đất nước trong hòa bình. Hai năm là quá lâu, đã tạo điều kiện, tạo cơ hội cho các thế lực ngoại xâm đánh dẹp các lực lượng kháng chiến miền Nam và củng cố vững chắc “dinh lũy” của họ.

Hiệp định Paris 1973 quy định Quân đội Nhân dân Việt Nam ở lại miền Nam. Còn theo hiệp định Genève 1954 thì QĐNDVN phải rút về miền Bắc. Đó là những cái khác nhau then chốt, nói lên chiến thắng tuyệt đối của Việt Nam trong hiệp định Paris.

Nhớ mãi bài học cay đắng đó, không muốn dẫm vào vết xe đổ năm 1954, nên lần này Việt Nam không cho Liên Xô và Trung Quốc tham gia quá trình đàm phán. Đồng thời dùng Cộng hòa miền Nam Việt Nam để “nói nhảm” những vấn đề không quan trọng, không thực chất với chính quyền Sài Gòn. Còn Việt Nam và Hoa Kỳ rảnh tay gặp riêng tranh luận, bàn bạc với nhau những vấn đề chính yếu, quan trọng, và đi vào thực chất. Phái đoàn của Việt Nam đứng đầu bởi ông Lê Đức Thọ và phái đoàn của Mỹ đứng đầu bởi Henry Kissinger chính là nhân tố quyết định.

Nhờ cách làm như vậy, cộng với chiến thắng lịch sử “Điện Biên Phủ trên không”, đập tan “thần tượng B-52” của Mỹ, nên lần này Việt Nam tạo ra được kết quả nhanh gọn và dứt khoát, khác hẳn với những gì đã diễn ra năm 1954. Lần này quân đội Mỹ phải “cút” vô điều kiện và ngay lập tức, thậm chí Quân đội Nhân dân Việt Nam còn cho người ra giám sát sự rút quân đó. Nhiều cựu binh và giới sử học Mỹ đã coi đây là một sự nhục quốc thể, niềm tự hào Hoa Kỳ đã bị đánh mạnh vào.

Lần này Việt Nam cũng không phải chờ hai năm mới có tổng tuyển cử. Thay vào đó, hiệp định quy định tổng tuyển cử phải được tổ chức ngay sau khi Mỹ hoàn thành việc rút quân. Mỹ rút quân thì thực chất kết cục cuộc chiến đã được định đoạt, trước sau gì ngụy quyền cũng sẽ sụp đổ, nhất là khi QĐNDVN ở lại miền Nam.

Do đó, nếu bên kia phá hoại hiệp định, không đáp ứng, thì nghĩa là điều khoản đó vô hiệu, Việt Nam sẵn sàng dùng biện pháp vũ lực để tiến lên đánh dứt điểm cho “ngụy nhào”, đánh bại những cố gắng bấu víu cuối cùng trong tuyệt vọng của Mỹ, hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, thống nhất Việt Nam.


Huy hiệu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam

Quân Mỹ rút đi có phải là chấm dứt xâm lược hay không? Cuộc chiến từ năm 1973 có phải là “nội chiến” hay không?

Cũng như trước năm 1964, khi Mỹ chưa đổ đại quân vào, thì lúc đó có phải là “nội chiến” hay không? Đương nhiên là không! Vì trong bất kỳ giai đoạn nào từ năm 1954-1975 thì Mỹ vẫn là người lãnh đạo cuộc chiến ở phe bên kia. Hai cuộc trường chinh liên tục, tiếp nối nhau từ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ trong thời kỳ 1945-1954 và chống toàn Mỹ đến năm 1975.

Quân đội Sài Gòn là do thực dân Pháp thành lập, dữ kiện này ghi rõ trong sách giáo khoa Sài Gòn trước 1975 và nhiều tài liệu, hồi ký, lời kể của các sĩ quan ngụy. Như vậy quân đội này là của Pháp. Sau đó Mỹ vào dùng và vá lại bằng tổ chức kiểu Mỹ. Nhiều tài liệu của Mỹ cũng cho biết như vậy. Trong bài “Lesson of the Vietnam War” của cựu sĩ quan Bộ quốc phòng Mỹ Daniel Ellsberg ghi rõ các lý do mà Mỹ phải chấm dứt xâm lược Việt Nam, trong đó có lý do thứ hai: “Bởi vì việc tra tấn và giết chóc thiếu nhân tính đang được thực hiện bởi đội quân mà Hoa Kỳ trang bị, huấn luyện và trả lương.”

Trong giai đoạn 1973-1975, ngụy quân vẫn chiến đấu cho Mỹ, cho quyền lợi của Mỹ, theo sự chỉ đạo của Mỹ, theo ý muốn của Mỹ, phục vụ cho chiến lược của Mỹ, và vẫn do Mỹ nuôi dưỡng. Mỹ buông ra là sụp đổ. Như vậy trong giai đoạn này là một hệ thống thực dân mới (người bản xứ trực tiếp chiến đấu, làm việc, quản lý, người chủ đứng ngoài giám sát, kiểm soát, chi tiền, đỡ đầu và hưởng lợi). Giai đoạn 1964 đến 1973 là giai đoạn gần như thực dân cũ, nghĩa là Mỹ trực tiếp vào làm, trực tiếp vào đánh.

Chủ nghĩa thực dân cũ và mới là gì?

Chủ nghĩa thực dân là chính sách tạo dựng một chế độ thuộc địa. “Mẫu quốc” là nước tuyên bố chủ quyền đối với những thuộc địa này. Cấu trúc xã hội, chính quyền và kinh tế của lãnh thổ bị quốc gia thực dân áp đặt. Thuộc địa kiểu cũ bị thiết lập chế độ nô lệ, nhân dân thuộc địa bị nô dịch, bóc lột nặng nề và công khai.

Sự khác nhau giữa chủ nghĩa thực dân cũ (colonialism) và mới (neocolonialism) chủ yếu nằm ở hình thức và mức độ can thiệp, mức độ ảnh hưởng. Thực dân cũ duy trì hình thức thuộc địa, tuyên bố công khai rằng đây là thuộc địa của họ.

Còn thực dân mới thì tuyên bố rằng các thuộc địa có “độc lập”, và đó là cái độc lập hình thức bề ngoài, còn trên thực tế thì không có bao nhiêu quyền hạn hay khả năng tự chủ, tự quyết. Tương tự một khu tự trị dán nhãn hiệu quốc gia độc lập. Nói chung, đó là một hình thái độc lập giả tạo, giả hiệu. Chỉ có cái tên, không có thực chất.

Thực dân mới không đem quân “công thành chiếm đất” sát nhập đất đai lãnh thổ. Họ cũng không trực tiếp đô hộ thông qua việc thiết lập hệ thống thuộc địa (colony), và rồi cướp bóc mọi nguồn tài nguyên và nhân lực của thuộc địa đem làm giàu cho mẫu quốc.

Thực dân mới tuyên bố “công nhận nền độc lập”, “tự do dân chủ” của một thuộc địa có tên trên bản đồ thế giới như là một quốc gia chính thức. Và nếu cần, họ sẽ vận động các đồng minh, chiến hữu, chư hầu để “công nhận” cái gọi là “quốc gia” đó, từng bước dần dần biến thành một sự “hợp pháp quốc tế”, một sự “chính danh”, hợp thức hóa sự đô hộ thực chất của mình.

Họ, trên thực tế, kiểm soát gián tiếp các thuộc địa kiểu mới về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa (trường hợp mức độ nặng), hoặc thông qua kiểm soát về kinh tế mà kiểm soát về chính trị (mức độ trung bình). Cơ sở vật chất của thực dân mới là sở hữu của các công ty tài phiệt nước ngoài về tư liệu sản xuất của thuộc địa kiểu mới, còn chỗ dựa xã hội của nó là các giai cấp, tầng lớp bóc lột ở thuộc địa, đặc biệt là tầng lớp tư sản mại bản. Thủ đoạn thường thấy trong thế kỷ 21 ngày nay là viện trợ kinh tế kèm theo điều kiện chính trị có lợi cho “mẫu quốc” (mức độ nhẹ). Nói cách khác là dùng tiền mua chủ quyền.


Các quốc gia trên thế giới dưới tầm ảnh hưởng của quân đội Mỹ, tính đến năm 2007. Màu càng đậm nghĩa là ảnh hưởng quân sự Mỹ càng nhiều, màu càng nhạt thì sự ảnh hưởng càng ít. Hiện Mỹ đang có số lượng quân đội và căn cứ quân sự ở nước ngoài nhiều nhất thế giới.

Chủ nghĩa thực dân mới ngày nay, ở một mức độ nhẹ nhàng hơn, tinh vi hơn, khôn khéo hơn, đã sử dụng chủ nghĩa tư bản, toàn cầu hóa và các kênh chính trị gián tiếp, kinh tế, văn hóa, quyền lực mềm, để lũng đoạn, thao túng, kiểm soát một thuộc địa kiểu mới thay vì kiểm soát, điều khiển thẳng thừng bằng quân đội chính quốc hoặc chính trị trực tiếp.

Các tập đoàn tư bản tài phiệt đa quốc gia thông qua những tác động này sẽ tạo sức ép, ký kết các hợp đồng béo bở và thực thi các chính sách có lợi cho họ ở những quốc gia này, tiến hành bóc lột nguồn lực lao động, cướp nguồn tài nguyên một cách “hợp pháp”, “danh chính ngôn thuận”, qua “đầu tư”, cổ phần hóa, hợp đồng kinh doanh bất bình đẳng.

Thuật ngữ “chủ nghĩa thực dân mới” (“neocolonialism”) lần đầu tiên được nêu ra bởi Kofi Ankomah, tổng thống đầu tiên của nước Ghana độc lập, và đã được thẩm định, nghiên cứu, phân tích bởi các nhà chính trị học, học giả và triết gia thế kỷ 20, trong đó có những người có uy tín quốc tế cao Jean-Paul Sartre và Noam Chomsky.


Kwame Nkrumah, một chiến sĩ cách mạng kiên cường chống chủ nghĩa thực dân cũ, tổng thống đầu tiên của Ghana. Ông còn là một trong những người đầu tiên nghiên cứu và đưa lên khái niệm về chủ nghĩa thực dân mới. Ảnh trên tem thư Liên Xô (1989).

Xét tổng quan ở tầm vĩ mô, thì hình thái xâm lược trong lịch sử thế giới diễn ra chủ yếu bằng 3 hình thức: Thời cổ đại và trung đại là xâm lược công thành chiếm đất, thôn tính, cướp nước rõ ràng, sát nhập nước bị thôn tính vào nước đi thôn tính. Thời cận đại là xâm lược kiểu thực dân (cũ), không chính thức cướp nước bằng cách sát nhập nước này vào nước kia, sát nhập đất đai, nhưng chiếm đóng và dùng chế độ toàn quyền thuộc địa để đô hộ nơi đó, và công khai gọi nơi đó là một “thuộc địa” (colony).

Thời hiện đại chủ yếu là xâm lược kiểu thực dân mới, không chính thức sử dụng chế độ thuộc địa, không công khai gọi nơi đó là một “thuộc địa”, thậm chí ngụy quyền bản xứ được dựng lên ở nơi đó có thể có một ít thực quyền nào đó do mẫu quốc ban phát. Nói chung, thực dân cũ là trực tiếp vào làm, thực dân mới là đứng ngoài xem “CEO” làm, và trong trường hợp đặc biệt cần thiết nào đó thì mẫu quốc mới “nhảy” vào.

Đầu tiên, từ thời cổ đại, trung đại đến cận đại, đa số các nước, các đế chế đều thôn tính nhau kiểu công thành chiếm đất, sát nhập quốc gia, đồng hóa hoặc diệt chủng dân tộc.Từ thời cận đại, các đế quốc phương Tây đã xâm lược khắp thế giới bằng chủ nghĩa thực dân cũ. Từ thời hiện đại thì vừa có thực dân cũ, vừa có thực dân mới, hoặc có những thuộc địa kiểu mới nhưng vẫn mang nhiều nét của thực dân cũ (như miền Nam Việt Nam giai đoạn 1964-1973). Nhìn chung, con người tiến hóa, thế giới tiến hóa, thì các thủ đoạn, cách thức, phương pháp xâm lược cũng “tiến hóa” theo. Ngày càng “nhẹ nhàng” hơn, tinh xảo hơn, dễ che đậy hơn.

Đó là nhìn sơ lược về lịch sử thế giới. Còn nếu nhìn cụ thể hơn về lịch sử Việt Nam, thì chúng ta vẫn thấy sự tương đồng. Mỗi thời kỳ lịch sử giặc xâm lược đều có những hình thức xâm lược khác nhau, và càng về sau thì càng tinh vi hơn.

Phong kiến Trung Hoa xâm lược Đại Việt, chiếm đất đai, sát nhập lãnh thổ Đại Việt vào Trung Hoa, biến đất Việt thành một phần của đất Tàu, biến Đại Việt thành một châu quận của họ. Và trong thời gian đô hộ thì không tồn tại triều đình người Việt, không có bộ máy hành chính người Việt, An Nam Đô Hộ Phủ do người Hán cai quản có tất cả quyền hành.

Thực dân Pháp chiếm hữu và trục lợi ở Đông Dương như một thuộc địa, nhưng trên danh nghĩa vẫn có vương quốc An Nam “độc lập”. Vẫn có triều đình Huế với các “hoàng đế” có ngai vàng nhưng không có thực quyền. Họ trực tiếp quản lý Việt Nam bằng Toàn quyền Đông Dương, và dưới trướng có rất nhiều cộng sự người Việt. Bộ máy hành chính người Việt được thành lập. Họ thiết lập một hệ thống ngụy quyền địa phương quy mô, rộng lớn, bao gồm những lực lượng ngụy binh (lính Nam triều, lính khố xanh, khố đỏ, khố vàng, Quân đoàn Bộ binh Bắc Kỳ, lính Lê Dương gốc Việt, Quân đội Quốc gia Việt Nam, tiền thân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau này). Họ được huấn luyện chu đáo và chuyên nghiệp.

Cho thấy rằng Pháp cũng xâm lược, nhưng hình thức xâm lược, hình thức chiếm đóng, hình thức trục lợi là khác với phong kiến Trung Hoa. Pháp không chủ trương sát nhập Việt – Miên – Lào vào nước Pháp, mà chỉ muốn khai thác, bóc lột, vơ vét, xơ múi những lợi ích tài nguyên màu mỡ, những nguồn nhân lực, nô lệ, lao công phong phú.

Họ không cần sát nhập lãnh thổ, cướp đất đai trên danh nghĩa, thay vào đó, họ mị dân bằng những tuyên bố “bảo hộ” (bảo vệ) cho vương quốc An Nam. Họ cho người Pháp vào trực tiếp quản lý, trực tiếp nắm lấy. Và các cộng sự người Việt chỉ là loại thừa hành cấp thấp hoặc địa phương. Bộ máy trung ương do người Pháp quản lý.

Đế quốc Mỹ viện trợ và giúp đỡ Pháp tái chiếm Việt Nam thất bại, sau đó nhảy thẳng vào, và từng bước hất cẳng Pháp, thu nhận và nuôi dưỡng ngụy quyền và ngụy quân mà Pháp đã sử dụng và để lại. Thay tên đổi họ lại cho ngụy quân, ngụy quyền, tổ chức lại, xây dựng mới, may vá lại, thay đổi một vài tay sai, giữ lại biểu tượng “quốc kỳ” và “quốc ca” (cờ vàng ba sọc đỏ và bài “Tiếng Gọi Công Dân” mà bọn tay sai Pháp đã lấy trái phép của nhạc sĩ Việt Minh Lưu Hữu Phước, đổi tên bài hát, cắt xén ca từ, xào nấu nội dung từ ca khúc cách mạng Tiếng Gọi Thanh Niên của tác giả).

Cách thức xâm lược của giặc ngoại xâm theo tiến trình lịch sử, theo sự tiến hóa của văn minh nhân loại, đã có sự thay đổi và “nâng cấp” theo thời gian, càng lúc càng mị dân và được ngụy trang tinh vi hơn.

Mỹ xâm lược Việt Nam là xâm lược kiểu thực dân mới. Theo đó, ông chủ đứng ngoài thu lợi, giám thị, kiểm soát. Còn phần quản lý thuộc trách nhiệm của ngụy quyền bản địa, từ địa phương đến trung ương. Giặc không trực tiếp bắt tay vào làm, quân đội chính quốc không cần trực tiếp ra tay như thực dân cũ.

Sự đô hộ thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam dễ ngụy trang hơn, do nó là cuộc xâm lược hình thức mới, thông qua ngụy quyền để kiểm soát miền Nam Việt Nam, khống chế khu vực và chiếm đoạt tài nguyên, trên danh nghĩa “tham chiến giúp đỡ đồng minh”. Chứ trên danh nghĩa họ không công khai gọi miền Nam Việt Nam là thuộc địa như thực dân Pháp, và cũng không chính thức sát nhập miền Nam Việt Nam vào liên bang Mỹ, trở thành một tiểu bang của Mỹ như họ đã làm với Oregon, Hawaii, Texas….

Người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam vào lúc nào?Mỹ chỉ hoàn toàn thua cuộc và buông hẳn Ngụy Sài Gòn từ sáng ngày 30/4/1975. Theo hồ sơ SSN/0802 USMC, bản báo cáo After Action Report (Báo cáo Hậu hành động) của thiếu tá lục quân James H. Kean, báo cáo các hành động của Lục quân Hoa Kỳ trong thời gian 17/4/1975 – 7/5/1975 và tác giả George R. Dunham trong tác phẩm US Marines in Vietnam: The Bitter End, 1973-1975 (Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam: Sự kết thúc cay đắng, 1973-1975), nằm trong loạt sách về lịch sử Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam, do Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ xuất bản năm 1990, tường thuật các hành động của Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ trong giai đoạn 1973-1975, thì diễn biến như sau:

Ngày 30/4, Martin rời Việt Nam từ 4:58 sáng. 7 giờ sáng những quân nhân cuối cùng của Hoa Kỳ bắt đầu rời khỏi Việt Nam. 7:53 sáng chiếc trực thăng chiến đấu cuối cùng của Mỹ chở 10 người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ bay khỏi Việt Nam và đáp xuống căn cứ quân sự USS Okinawa ở Nhật. Sau khi 10 người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, thì đến 11:30 trưa, Dương Văn Minh đầu hàng, ngụy quyền sụp đổ và ngụy quân tan rã. Hai tướng Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam là Fredrick C. Weyand và John Murray, 2 tướng này đã bỏ chạy khỏi Việt Nam ngay từ chiến dịch Mùa xuân 1975, trước chiến dịch Hồ Chí Minh.

oOo

Năm 1964, Mỹ lần lượt đưa 58 vạn quân vào miền Nam Việt Nam là để giữ cho chính quyền bù nhìn của họ khỏi bị sụp đổ. Sau này tổng thống Nixon thú nhận nếu lúc đó Mỹ không đem đại quân vào miền Nam Việt Nam thì chính quyền phục vụ cho họ chắc chắn sẽ sụp đổ. Đến năm 1972, quân Mỹ chết quá nhiều, nhất là sau năm 1968, cả thế giới, cả nước Mỹ và Lưỡng viện Mỹ kêu ca, áp lực, thúc ép, nội bộ chính quyền Mỹ mâu thuẫn trầm trọng, nên đành đốc thúc Phi Mỹ hóa – Việt Nam hóa chiến tranh, tính đến chuyện rút về để quân bản xứ đánh thay tiếp tục.

Bản chất cuộc chiến là xuyên suốt, không nên ngộ nhận rằng có cuộc chiến nào khác chỉ vì Mỹ “đem quân vào, rút quân ra”. Đây là một cuộc chiến xuyên suốt từ năm 1954 đến 1975. Đối với chính phủ Hoa Kỳ, chỉ có 1 Vietnam War chứ không có 2 hay 3 cuộc chiến tranh khác nhau.

Một vài bài báo hiện nay vì quá chú ý tuyên truyền tầm vóc vĩ đại của Điện Biên Phủ trên không, nên viết không khéo, dễ gây ngộ nhận rằng sau chiến dịch này Mỹ đã chấm dứt xâm lược, đã buông xuôi, đã không còn cai trị thực dân mới nữa, đã buông ra nước Việt Nam. Gây ngộ nhận rằng cuộc chiến 1954-1975 là có 2 cuộc chiến tranh khác nhau, và sau năm 1973 là “nội chiến”. Sự thiếu kỹ lưỡng này vô tình tạo cơ hội cho các thế lực phản động thừa cơ xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc bản chất cuộc chiến. Thiết nghĩ các ngành xuất bản, báo chí và ngành tuyên giáo nên để ý xem xét các trường hợp đó.

Có một thực tế rằng, các thế lực thực dân, đế quốc tuy đánh thua, chết nhiều lính nên mới ký hiệp định rút quân, nhưng bên trong họ không chịu thua mà bao giờ cũng vẫn cố thông qua ngụy quyền, tay sai bản xứ để tiếp tục xơ múi lợi ích thuộc địa. Cố bám víu quyền lực và quyền lợi, cố giữ vòi bạch tuộc đến phút cuối cùng mới thôi.

Trong trường hợp Pháp cũng như vậy, họ ký hiệp định Genève về Đông Dương rồi rút quân, nhưng vẫn cố thông qua các tay sai cũ để bám víu miền Nam Việt Nam. Trong thời điểm đó họ vẫn trả lương cho các thế lực quân phiệt, giáo phái và giang hồ ly khai, như Hòa Hảo, Cao Đài, Bình Xuyên.

Mỹ muốn thanh toán nốt các tàn dư của Pháp, hoàn tất việc hất Pháp ra khỏi Đông Dương để mình vào thay hoàn toàn, nên đã “xử đẹp” các lực lượng ăn lương Pháp này. Như vậy, đến khi Mỹ hoàn thành việc hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam thì sự ảnh hưởng chính trị, kinh tế, quân sự của Pháp ở miền Nam mới chấm hết. Chứ rõ ràng không có chuyện tình nguyện ra đi.

Hoa Kỳ tiếng là rút quân năm 1972, nhưng vẫn để lại miền Nam hàng vạn “cố vấn”, những quân nhân mặc đồ dân sự, miền Nam vẫn đầy người Mỹ và vẫn do Mỹ kiểm soát, cuộc chiến vẫn do Mỹ chỉ đạo, cố bám víu đến phút chót mới thôi, chiếc trực thăng quân sự chở 10 lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam là vào rạng sáng ngày 30/4/1975.

Như vậy đã rõ ràng, Điện Biên Phủ trên không là một trận đại thắng oanh liệt, trận thắng đó đã mở ra một chương mới trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, là một bước ngoặt tích cực và thuận lợi hơn cho Việt Nam thực hiện các giải pháp hòa bình quy định trong hiệp định Paris hoặc trường hợp các bên kia lật lọng thì tiến tới đánh dứt điểm, giải phóng nốt những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam.

Chứ đó chưa phải là chiến thắng chung cuộc, và không có nghĩa Mỹ rút quân chính quy thì nghĩa là Mỹ thôi xâm lược, các đội quân bản xứ chiến đấu thay Mỹ vẫn còn đó. Chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, “thay màu da xác chết” của Mỹ vẫn còn đó.

Và càng không có nghĩa là Mỹ rút quân thì thời gian sau đó Mỹ-Thiệu trở nên hoàn toàn độc lập riêng biệt với nhau. Không có nghĩa là không còn người Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Không có nghĩa nếu Mỹ buông ra là Thiệu có thể đứng vững hai chân. Không có nghĩa là lính Mỹ không có quay lại miền Nam Việt Nam. Thực tế ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn được Mỹ cưu mang, chỉ đạo chiến tranh, gắn bó máu thịt với nhau. Và miền Nam vẫn đầy người Mỹ, lần này mặc áo dân sự. Chỉ có 1 cuộc chiến tranh và cả Việt Nam và thế giới đều biết kết quả chung cuộc là ở năm 1975 chứ cuộc chiến không kết thúc chính thức ở năm 1973.

Miền Nam giai đoạn 1964-1973 là thực dân cũ hay mới?

Xưa nay quan điểm chính thống trong sách giáo khoa và các giáo trình lịch sử Việt Nam là: Thời Pháp là thực dân cũ, thời Mỹ là thực dân mới. Nhưng nhìn lại thì thấy trong giai đoạn 1964-1973 Mỹ đã đổ quân ồ ạt vào miền Nam Việt Nam. Một hành động mà theo cách nói dí dỏm của nhà văn Chu Lai là: “Diễn viên quá tồi nên đạo diễn đành phải đích thân nhảy vào đóng thay.”

Nguyên tắc của thực dân cũ là “trực tiếp săn tay áo vào làm”, đưa thực binh vào, trực tiếp chỉ huy, chỉ đạo, quản lý. Nguyên tắc của thực dân mới là “đứng ngoài lãnh đạo và hưởng lợi nhuận”, không đưa thực binh vào mà dùng quân lực bản địa để chiến đấu thay cho mình, thay màu da xác chết. Người chủ đứng ngoài lãnh đạo, chỉ đạo chung, trả tiền, nuôi dưỡng, không trực tiếp quản lý và chiến đấu.

Thế nhưng trong giai đoạn 1964-1973, Mỹ đã lần lượt đưa trên 55 vạn quân viễn chinh tràn vào Nam Việt Nam, gấp 3 lần quân số của thực dân Pháp trong chiến tranh Pháp – Việt. Người Mỹ trực tiếp chỉ huy, ra lệnh, quản lý, kiểm soát chặt chẽ sâu sát, và đồng thời trực tiếp thân chinh chiến đấu.

Trong thời gian này, người Mỹ, chính trị gia Mỹ, đại quân Mỹ có mặt ở đầy miền Nam Việt Nam và làm cho sinh ra khoảng nửa triệu con lai Mỹ. Trong khi suốt gần 100 năm Pháp thuộc, thời thực dân cũ, cũng chưa thấy tài liệu nào nói tới số lượng con lai Pháp nhiều đến như vậy. Vậy thì giai đoạn 1964-1973 này có khác bao nhiêu so với chế độ thuộc địa của Pháp trước đây? Trong khi ở một số trường hợp mức độ còn khủng khiếp hơn.

Từ những cơ sở trên, có thể tạm kết rằng trong kháng chiến chống Mỹ, giai đoạn 1964-1973 là giai đoạn mang tính chất thực dân cũ. 2 giai đoạn kia, trước năm 1964 và sau năm 1973, thì mới hoàn toàn đúng nghĩa là thực dân mới. Thiết nghĩ giới sử học cũng nên nghiên cứu kỹ các yếu tố này.

Không quân Hoa Kỳ có vai trò và uy lực như thế nào?Mũi nhọn quân sự của Mỹ chính là quân chủng không quân. Bộ quốc phòng Hoa Kỳ đặt trọng tâm phát triển quân chủng này không phải vì chim ưng là biểu tượng quốc gia của nước Mỹ, cũng không phải vì Đảng Cộng hòa được mệnh danh là “đảng diều hâu”, mà là vì tính thực dụng, trí tuệ, tầm nhìn xa, tham vọng bành trướng quốc tế, và khả năng kinh tế, ngân sách quốc phòng dồi dào của Mỹ.

Trong chiến tranh hiện đại, không quân đã thể hiện ưu thế siêu việt so với quân chủng lục quân và hải quân. Không quân di động, tác chiến vừa nhanh vừa chuẩn. Ít phải dùng nhiều người và đỡ hao binh tổn tướng. Về chính trị thì nó mang tính chất công kích, quấy rối, đỡ bộc lộ rõ bản chất xâm lược so với bộ binh hành quân chiếm đóng.

Không quân tấn công được vào các mục tiêu trên không, dưới đất và trên biển. Nó chiến đấu được trong nhiều không gian và thời gian khác nhau và phá hoại mọi nơi. Nó có nhiều tác dụng đa dạng như chuyển quân rất nhanh, đổ bộ, nhảy dù, bắn đạn, phóng tên lửa, dội bom, rải chất độc hóa học vào các mục tiêu khác nhau. Ngoài vai trò chính, nó còn có thể chiến đấu với vai trò phụ, tiếp ứng, trợ chiến cho lục quân và hải quân bạn cũng như tấn công, oanh kích vào các mục tiêu bộ binh và thủy binh địch.

Lục quân và hải quân bị hạn chế bởi không gian tự nhiên trong hoạt động, trong khi không quân có thể chiến đấu mọi nơi và mọi chiến trường. Hải quân chỉ chiến đấu được trên tàu, trên biển. Lục quân chỉ chiến đấu được trên bộ, trong khi máy bay và không quân có thể tác chiến và không kích vào mọi nơi, trên biển, trên bộ, và trên không.

Không quân đáp ứng được ba yếu tố quyết định thành bại trong một trận đánh, đó là: Tốc độ, điểm cao, và sức mạnh công phá, sức mạnh hỏa lực. Tốc độ hành quân, di chuyển, tấn công của máy bay nhanh hơn gấp vạn lần chân người, xe, tàu. Phàm trong chiến tranh xưa nay, bao gồm cả chiến tranh cổ đại, phe nào chiếm được điểm cao thì phe đó ưu thế hơn và cơ hội chiến thắng cao hơn. Trong chiến tranh thời cổ đại – trung đại thì trên núi, trên thành, và trong chiến tranh thời cận đại – hiện đại thì mục tiêu chiếm trước trên chiến trường luôn là các điểm cao, các ngọn đồi. Trong chiến tranh Triều Tiên, quân Trung Quốc và quân Hoa Kỳ đã giành nhau từng ngọn đồi. Trong chiến tranh biên giới Việt – Trung, ta và giặc cũng tranh nhau từng điểm cao.


Oanh tạc cơ Thế hệ mới (Máy bay ném bom 2018) của không quân Mỹ

Các quyển sách giáo khoa binh pháp cổ điển như Tôn Vũ Binh Pháp, Ngô Khởi Binh Pháp, Vũ Mục Di Thư (Nhạc Phi) của Trung Quốc, Hành Quân Pháp (tương truyền của Lý Thường Kiệt), Binh Thư Yếu Lược (Trần Hưng Đạo), Hổ Trướng Khu Cơ (Đào Duy Từ) của Việt Nam đều chỉ ra rằng quân dưới thành phải đông gấp 3 lần quân trên thành thì mới đánh ngang cơ với nhau. Và nếu quân trên thành có cung nỏ mạnh thì quân dưới thành phải đông gấp 5 lần thì mới có khả năng phá thành. Như vậy, điểm cao là rất quan trọng, và không quân chính là một loại “điểm cao di động” nhanh nhẹn và độc đáo trong chiến tranh hiện đại.

Trong các cuộc chiến cổ điển, các đội quân xạ thủ nào có cung tiễn càng mạnh, bắn được càng xa, thì càng chiếm ưu thế lớn trên sa trường. Trong chiến tranh hiện đại thì hỏa lực càng mạnh càng chiếm ưu thế. Máy bay có thể phóng nhiều loại tên lửa, rải mọi loại bom, bom chùm, bom bi, và cả bom nguyên tử.

Không quân Mỹ như thế nào sau chiến bại ở Việt Nam?

Lịch sử phát triển của nền công nghiệp quốc phòng, khoa học công nghệ quân sự của Hoa Kỳ có hai bước ngoặt chính: Một là bước ngoặt Chiến tranh Thế giới lần 2; từ năm 1939 đến 1945, hai cơ quan Office of Strategic Services (OSS, tiền thân của CIA) và Joint Intelligence Objectives Agency (JIOA) của Mỹ thực hiện chương trình Operation Paperclip, là một chương trình nhằm chiêu dụ, tuyển dụng, mua chuộc, thậm chí bắt cóc và ép buộc các nhà bác học, khoa học, toán học, kỹ sư, những bộ óc thiên tài, thông thái, ưu tú nhất của Đức và Nhật bí mật làm việc, nghiên cứu cho Bộ quốc phòng Hoa Kỳ và sau đó vẫn sử dụng họ đến năm 1991. Nhiều người đã mất tích bí ẩn.

Từ khi chương trình đó được triển khai, nền khoa học kỹ thuật, công nghệ quốc phòng của Mỹ có sự tiến bộ vượt bực, bỏ xa các nước khác, vượt trội cả các nước châu Âu. Và sau khi Liên Xô sụp đổ, chỉ còn lại một mình Hoa Kỳ độc quyền bá chủ công nghệ chiến tranh trên thế giới.

Hai là bước ngoặt Chiến tranh Việt Nam; trong quá trình xâm lược Việt Nam, với ý chí quyết thắng bằng mọi giá, Mỹ đã sáng tạo, nghiên cứu nhiều công nghệ mới, đặc chế nhiều vũ khí, công cụ chiến tranh mới. Họ đã nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng 3 loại hình chiến tranh công nghệ cao trong cuộc chiến Việt Nam: Chiến tranh điện tử (electronical warfare), chiến tranh hóa học (chemical warfare) và chiến tranh khí tượng (weather warfare). Trong đó, chiến tranh điện tử và chiến tranh khí tượng là lần đầu tiên quân đội Mỹ áp dụng trong chiến sử Hoa Kỳ.

Và sau khi bị Việt Nam ban cho sự thất bại đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, chính phủ Mỹ đã tăng cường ngân sách quốc phòng, phát triển nâng cao năng lực quân đội, khoa học chiến tranh và công nghệ quân sự, phát triển và nâng cấp lực lượng không quân. Họ xem lại tất cả, thẩm định và đánh giá lại tất cả, viết lại nhiều giáo trình quân sự.


Cầu Hàm Rồng bị đánh sập bởi bom định hướng bằng tia laser (laser-guided bomb – LGB). Với loại bom mới này, 14 chiếc máy bay đã làm được điều mà 871 chiếc trước đây không làm được.

Học viện quân sự West Point nổi tiếng của Mỹ những năm sau mốc thời gian 1975 đã mở nhiều hội thảo, nghiên cứu, phân tích, tranh luận từ các hiệu trưởng, cựu hiệu trưởng, giáo sư, giảng viên và cựu giảng viên từng phục vụ trong trường, và những người thỉnh giảng được mời từ bên ngoài, thậm chí ngoài nước Mỹ, tham gia bàn bạc, hội luận, xem xét, thẩm định, đánh giá từng chiến dịch một, từng thời điểm một, và từng góc độ, từng khía cạnh, “không bỏ sót hòn đá nào chưa lật” (“leaves no stone unturn”, châm ngôn Mỹ) để giải đáp câu hỏi hóc búa: Tại sao chúng ta thua Việt Nam? Sau đó họ đã phải chỉnh sửa, cập nhật, thậm chí viết mới lại hoàn toàn, in lại nhiều giáo trình quân sự của trường.

Đó là những bước ngoặt mới, bước tiến lịch sử của quân đội Mỹ trong quân sử Hoa Kỳ. Và kể từ những bước dài đó, cho đến nay, quân đội Hoa Kỳ không còn biết thất bại là gì, dù là những thất bại quân sự trong những trận đánh nhỏ lẻ. Đến nỗi trong hai ba thập kỷ trở lại đây, mỗi lần Mỹ dùng binh là thiên hạ không ai đặt câu hỏi là Mỹ “sẽ thua hay thắng”, mà họ đặt câu hỏi Mỹ “cần bao lâu để thắng”.


Bia tưởng niệm những quân nhân Mỹ chết trận ở Việt Nam

Bộ quốc phòng Hoa Kỳ đã từng cho thử nghiệm các cơ sở dữ liệu trên các siêu máy tính, siêu phần mềm được đặc chế dành riêng cho quốc phòng mà họ đã phát triển từ những ý tưởng, cơ sở ban đầu của các nhà bác học, khoa học, toán học Đức và Nhật mà họ đã bắt cóc về phục vụ trong chương trình, chiến dịch Paperclips.

Các máy tính, phần mềm quân dụng, đặc biệt đó lấy hàng triệu tình huống chiến trường, và “chạy” đi “chạy” lại có thể lên đến hàng tỷ lần với tốc độ nhanh để xác định cách giải quyết, giải pháp, cách phản ứng tối ưu là gì. Họ phân tích dữ liệu chi tiết và các con số, để đánh giá mức độ hiệu lực của những cách đánh khác nhau, đánh ở đâu là tốt nhất, dùng quân nào là tốt nhất….

Cơ sở nghiên cứu của họ là từ hàng vạn cuộc chiến, trận đánh lớn nhỏ khác nhau trong chiến sử thế giới, kim cổ đông tây, mà lịch sử thế giới còn ghi lại, từ cổ đại đến hiện đại. Họ đặc biệt chú trọng nghiên cứu kỹ càng, sâu sắc hơn về các trận chiến sử dụng vũ khí hạng nặng, vũ khí hiện đại. Hệ thống điện toán tính toán mọi đặc tính, ước lượng mức độ tinh nhuệ, sở trường, sở đoản, chất lượng vũ khí, quân số, các quân binh chủng được sử dụng, địa điểm đóng quân, chiến địa, không gian, thời gian, thiên nhiên, các giả định và “phỏng đoán có căn cứ” (educated guess) về mục tiêu chiến thuật và chiến lược của các bên tham chiến, may rủi, các khả năng ngẫu nhiên, và các yếu tố liên quan….


Vũ khí không gian: Không gian, vũ trụ là điểm cao nhất, các vũ khí trên quỹ đạo sẽ có khả năng nhìn thấy và hạ gục bất kỳ vật thể gì trên mặt đất.

Từ những thuật toán phức tạp đó, các nhà toán học quân sự Mỹ đã phát hiện ra một sự thật tưởng chừng như rất đơn giản mà trước đó nhiều nhà quân sự trên thế giới dù có biết sơ qua nhưng không đánh giá đúng tầm mức quan trọng của nó và không khai thác nó đúng mức. Đó là trong chiến tranh cổ đại, trung đại, cận đại thì quân đội nào chiếm điểm cao thì cơ hội chiến thắng về chiến thuật (chiến thắng trận đánh) cao hơn rất xa, và điểm đóng quân càng cao hơn địch thì cơ hội thắng càng cao hơn và tỷ lệ chênh lệch thương vong giữa quân trên cao và quân dưới thấp càng cách xa. Những đội quân biết chiếm đóng đồi núi trước, những đội quân trên các tường thành càng cao, thì khả năng thắng trận càng cao.


Mô hình máy bay bí ẩn X-37B trên quỹ đạo trái đất.

Trong chiến tranh hiện đại thì càng đơn giản đến lạ lùng. Các siêu máy tính và thuật toán đó “nói” cho ta biết quân đội gần như bao giờ cũng nên dùng không lực, nói cách khác, chỉ nên dùng không quân và máy bay mà thôi. Đây là một kết quả có phần làm đảo ngược cách nghĩ thông thường của con người, kể cả những người trong quân đội, lâu nay luôn có xu hướng cho rằng cả ba quân chủng hải – lục – không quân đều quan trọng bằng nhau và nên được phát triển, vận dụng đồng đều. Hoặc có xu hướng cho rằng bộ binh đóng vai trò quyết định trên chiến trường và mới là quan trọng nhất.

Về tổng quát, khắp thế giới chỉ có một số rất nhỏ là thoát khỏi nguyên lý này, trong đó có Việt Nam. Trong lịch sử phong kiến, các thành trì của Việt Nam đều thấp hơn nhiều so với các thành quách, lâu đài hoành tráng, vĩ đại, cao sừng sửng ở Trung Quốc và phương Tây. Các sách binh pháp cổ truyền của người Việt cũng không đặt cược nhiều vào yếu tố “thành cao, hào sâu” như các quyển binh pháp của phong kiến Trung Hoa.

Trong lịch sử hiện đại, Việt Nam rất kém về không quân, thậm chí trong kháng chiến chống Pháp thời gian đầu thì Việt Nam hoàn toàn không có máy bay chiến đấu. Trong kháng chiến chống Mỹ thì không quân Việt Nam cũng rất kém phát triển. Nhưng Việt Nam thắng, một phần là nhờ có hệ thống phòng không mạnh (nghĩa là vô hiệu hóa thế mạnh không quân của địch, yếu tố mà các máy tính Mỹ có tính vào). Và phần lớn là nhờ chiến lược chiến tranh nhân dân, chiến thuật chiến tranh du kích, và tinh thần giữ nước vững chắc, can trường của người Việt Nam.


Máy bay cất hạ cánh thẳng đứng nổi tiếng V-22 Osprey của Mỹ

Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld sau Chiến tranh Việt Nam đã cùng nhiều chuyên gia, chuyên viên khác nghiên cứu rất kỹ về nghệ thuật đánh du kích của Việt Nam, và đó là cơ sở lớn để ông ta về sau đã ủng hộ và kêu gọi đẩy mạnh quá trình nghiên cứu các cơ sở dữ liệu và từ đó hình thành “học thuyết quân sự Rumsfeld”, một học thuyết quân sự mới của Mỹ, và được quân đội Mỹ áp dụng hoàn toàn kể từ sau Chiến tranh Iraq.

Nhưng dù dùng đến siêu máy tính và các thuật toán cao cấp chi li, họ cũng vẫn không kết luận được là vì sao họ thất bại trước Việt Nam. Ngày nay vẫn chưa có đồng thuận nào trong giới nghiên cứu lịch sử quân sự Hoa Kỳ về nan đề này.

Đó là do từ một tư tưởng nghiêng nặng về chủ nghĩa cá nhân và thực dụng lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản nên họ không thể có được sự nhận thức, cảm nhận sâu sắc về “chiến tranh nhân dân”, không hiểu nổi, không nhận thức sâu sắc, không cảm nhận được cái tinh thần sẵn sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, điều họ chưa từng trải nghiệm qua.

Đây cũng là vấn đề thuộc về tính giai cấp trong chiến tranh mà các thống soái Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành hay nói. Không có siêu máy tính, thuật toán tinh vi, hay công thức toán học chi li nào tính ra được yếu tố giai cấp, yếu tố dân tộc, yếu tố con người, tình đoàn kết đặt cái chung lên trên cái riêng, ý thức đặt nghĩa lớn lên trên tình riêng, tình yêu đối với quê hương xứ sở, nói chung là yếu tố tinh thần và yếu tố chính trị.

Các cơ sở dữ liệu cũng chỉ ra rằng một đội quân nhỏ hơn nhưng uyển chuyển, linh động, tốc độ cao (speed, fast), nhanh nhẹn cao (quickness), tính cơ động cao hơn, và biết chú trọng bảo vệ sinh mạng người lính, bảo vệ sinh lực bản thân, sẽ gần như tuyệt đối thắng một đạo quân đông đảo nhưng chậm chạp, cồng kềnh, vướng víu, và chủ trương đánh kiểu thí mạng, lạm dụng chiến thuật “biển người” và các phiên bản tương tự (như “tiền pháo hậu xung” kiểu cổ điển). Tỷ lệ có lẽ là hơn 95% xác suất chiến thắng.

Về con người cụ thể, cả thế giới có lẽ chỉ có một vài vị tướng, một ít đạo quân là ngoại lệ, trong đó có hai nhân vật đều ở Trung Quốc, một là nhà quân sự trứ danh Hàn Tín (nhà Hán), hai là danh tướng Bành Đức Hoài (CHND Trung Hoa).



Minh họa Hàn Tín và chân dung Bành Đức Hoài

Hai vị tướng này quan niệm quân càng đông càng tốt. Hàn Tín có biệt tài tận dụng quân số áp đảo, dàn dựng, thiết kế những “thiên la địa võng”, “thập diện mai phục”, bao vây chặt chẽ và kín kẽ, đặt phục binh khiến quân địch bốn phương tám hướng đều không có đường đi, không có lối ra. Ông cũng có những phương pháp huấn luyện đặc biệt, kỳ lạ, khó ai bắt chước, để rèn luyện một đạo quân đông nghịt có thể di chuyển nhịp nhàng, hiệp đồng tác chiến ăn ý, kỷ luật, nói tiến là cùng tiến, nói lui là cùng lui.

Ông cũng là người đầu tiên “phát minh” ra cách cai quản một lực lượng đại quân số lượng lớn trên chiến trường bằng các đội trưởng cai quản theo nhóm, cách này khiến cho một đạo binh lớn, dù rườm rà vẫn khó đổ vỡ, chạy loạn. Trước đó, trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc, một đạo quân lớn một khi bị tấn công mạnh, bị thất thế, quân tiên phong bị loại khỏi vòng chiến thì thường bị vỡ trận và chạy loạn, dẫm đạp lên nhau mà chạy.

Tên tuổi Hàn Tín không chỉ được giới chuyên môn quân sự hiện đại Trung Quốc đưa vào trong các giáo trình quân sự, mà còn được giới chuyên ngành toán học đưa vào giáo trình toán học. Nghệ thuật đếm quân của Hàn Tín đã được các nhà toán học Trung Quốc qua nhiều thời kỳ phát triển thành một định lý nói về nghiệm của hệ phương trình đồng dư bậc nhất. Và họ đặt tên cho nó là “Bài toán Hàn Tín điểm binh” (Chinese remainder theorem – Định lý số dư Trung Quốc).

Tục truyền khi Hàn Tín điểm quân số, bởi vì quân của ông quá đông, nên ông cho quân lính xếp hàng 3, hàng 5, hàng 7 rồi báo cáo số dư. Từ đó ông tính chính xác quân số đến từng người dù quân nhiều đến số lượng nào. Trong khi các tướng sĩ khác không đủ năng lực, không biết cách đếm, kiểm soát, quản lý, chỉ huy số quân đông đến mức đó.

Định lý Hàn Tín có nhiều ứng dụng trong các bài toán về số nguyên lớn áp dụng vào lý thuyết mật mã. Trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng (Chinese Civil War), Mao Trạch Đông từng cho người dùng định lý toán học đặc thù Trung Hoa này để trợ lực cho đội quân mật mã của mình, góp phần làm cho công tác bảo vệ và lấy cắp mật mã thêm khởi sắc.

Cả Bành Đức Hoài và Hàn Tín đều có biệt tài lợi dụng quân số đông để mà chia binh rồi dùng nghi binh, khiến cho quân địch tưởng rằng họ sẽ đánh vào nơi này, nhưng họ lại dùng kỳ binh đánh mạnh một cách thần tốc và bất ngờ vào nơi khác, thường là các trọng điểm chứa lương thảo hoặc các thành lũy, các cơ sở phòng ngự, các doanh trại, đồn lính hiểm yếu, đầu não thần kinh của quân địch. Và cú đánh không ai ngờ đó thường trở thành một trận quyết chiến chiến lược đưa đến kết quả toàn thắng.

Nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Hoa là tiến sĩ Trương Tiểu Minh (Zhang Xiao Ming) từ Trường Đại học Không chiến Hoa Kỳ (U.S. Air War College) và chuyên gia phân tích người Anh gốc Hoa là Gary Lý (Gary Li), người đứng đầu Trung tâm Phân tích và Dự báo Chiến lược Không quân và Hải quân Hoàng gia Anh (London), khi hợp tác nghiên cứu phân tích về cuộc Nội chiến Trung Quốc (Chinese Civil War), họ cho rằng nếu Mao Trạch Đông không có nguyên soái Bành Đức Hoài thì kết quả tốt nhất (cho cộng sản Trung Quốc) là cuộc chiến sẽ còn kéo dài thêm hai ba năm nữa. Kết quả xấu nhất là hai bên phải lấy sông Hoàng Hà chia đôi thiên hạ. Vì vậy họ lên án Mao “qua cầu rút ván” (về việc Mao đày đọa Bành Đức Hoài sau khi “vắt hết quả chanh” ông ta ở Triều Tiên), và xếp Mao vào danh sách chung với các lãnh đạo Trung Hoa có tiếng lạm sát công thần như Lưu Bang, Hán Quang Vũ, Lý Thế Dân, Triệu Khuông Dẫn, Chu Nguyên Chương….

Nhưng cái quan trọng nhất mà các nhà quân sự Mỹ rút tỉa, đúc kết được chính là: Những con toán đó cho thấy các phần trăm về các khả năng, cơ hội thắng trận, và tỷ lệ xác người là không hề gần nhau, mà là rất cách xa. Các con số cho thấy một cách vô cùng áp đảo rằng nếu ai đó đặt trọng tâm phát triển bất kỳ quân binh chủng nào khác mà bỏ bê không quân, hoặc sử dụng bộ binh, hải quân, hoặc lính thủy đánh bộ quá nhiều hơn không quân, không có phối hợp không yểm mà chỉ tấn công một mình, thì không chỉ là sai, mà còn là quá sai, sai đến mức “điên rồ”. Và mỗi lần họ dùng lục quân và hải quân quá nhiều lần không cần thiết là mỗi lúc họ tự làm giảm xuống xác suất chiến thắng.

Dĩ nhiên các thuật toán này không tính đến các vấn đề “con người” liên quan khác, như ngân sách quốc phòng và thực tiễn trình độ công nghiệp quốc phòng của các nước. Không phải ai cũng có ngân sách quốc phòng lớn nhất thế giới như Mỹ (số lượng bằng 12 nước phía sau cộng lại), và có một nền công nghiệp quốc phòng “khủng” như Mỹ ở cả chiều rộng và chiều sâu, để phát triển một quân chủng tốn kém như không quân.

Các thuật toán này cũng có ít nhiều hạn chế, ví dụ nó chỉ tính thắng thua chủ yếu qua đếm xác. Chứ không tính đến các mục đích chiến lược chính trị. Nếu đánh giá thắng bại một cách máy móc như vậy thì trong hai cuộc kháng chiến không biết Việt Nam đã thua bao nhiêu lần.

Nhân vật kỳ tài Rumsfeld và học thuyết của ông đã làm thay đổi quân sự Mỹ như thế nào?Bộ trưởng quốc phòng Donald Rumsfeld là nhà chính trị và doanh nhân. Ông giữ chức Bộ trưởng bộ quốc phòng Hoa Kỳ năm 1975-1977 và được George W. Bush đích thân mời quay lại giữ chức này năm 2001-2006. Ông là người trẻ tuổi nhất và cũng là người cao tuổi nhất từng giữ chức vụ này, cũng như có nhiệm kỳ dài thứ nhì trong lịch sử, chỉ sau Robert McNamara.


Donald Rumsfeld

Ông là một nhân vật xuất thân dân sự, chỉ trải qua ba năm phục vụ quân dịch trong hải quân vào thời bình. Thông thường bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ và thế giới nhiều người xuất thân quân đội, có kinh nghiệm thâm niên, từng trải trên chiến trường thực tế, hoặc là thế hệ sau của các gia đình, dòng họ quân đội lâu năm.

Vậy tại sao ông Rumsfeld không thuộc nhóm “nhà nòi” quân đội đó, không hề được đào tạo bài bản về quân sự, chưa hề trải qua một trường đại học quân sự nào (ông tốt nghiệp ở trường đại học Princeton với chuyên ngành Khoa học chính trị), lại có thể tiến thân và trở thành Bộ trưởng quốc phòng của cường quốc quân sự Hoa Kỳ? Để rồi năm 2001, khi Bush đau đầu về các âm mưu quân sự nhắm vào khu vực Trung Đông thì Bush lại hạ cố mời Rumsfeld “xuống núi” một lần nữa?

Một phần lớn nguyên nhân là Rumsfeld có thực tài và có sự nhận thức quân sự rất sâu sắc, chỉ từ những nghiên cứu riêng biệt và sự hỗ trợ từ các trợ lý. Chính nhờ không xuất thân nhà nòi quân đội mà ông không bị vướng những lối mòn tư duy quân sự cũ kỹ, hoàn toàn suy nghĩ mới mẻ, xuất phát từ những góc độ nhìn mới, từ quan niệm mới, nhìn quân sự nói chung và quân Mỹ nói riêng từ những góc cạnh khác nhau.

Ông có cách nhìn, những suy nghĩ, lối làm việc đặc biệt “không giống ai”. Và nhờ cái “không giống ai” đó đã hình thành nên những chương trình nghiên cứu “không giống ai”: Dùng khoa học tự nhiên, toán học, hóa học, địa dư học, hải dương học, vũ trụ học…., những gì tưởng như không liên quan gì đến quân sự, để nghiên cứu quân sự. Hình thành nên những chương trình nghiên cứu, phân tích dữ liệu từ các siêu máy tính, phần mềm đặc biệt, công thức toán học, lập trình, thuật toán…. Dần hình thành nên “học thuyết Rumsfeld”. Và sau chiến tranh Iraq, học thuyết quân sự Rumsfeld đã thay đổi quân đội Mỹ, đổi mới hoàn toàn tư duy quân sự của Mỹ, thậm chí đảo ngược quan niệm quân sự của một số tướng lĩnh, nhà quân sự và giáo trình.

Tuy nhiên, quan điểm mới mẻ của ông đã từng bị cản trở, thậm chí bị chống đối gay gắt trong nội bộ quân đội Mỹ. Một bộ phận bảo thủ trong quân đội Mỹ chống ông từ những quan điểm quân sự truyền thống. Một bộ phận nhóm lợi ích chống ông bởi vì nếu càng lúc càng làm theo tư tưởng quân sự của Rumsfeld thì ngân sách quốc phòng sẽ chi cho không quân ngày càng lớn, ngân sách dành cho hải quân và lục quân ngày càng thấp dần. Do đó chỉ có quân chủng không quân là hoan nghênh Rumsfeld. Còn quân chủng lục quân và hải quân thì ghen ghét, than phiền, khiếu nại, bài xích.

Năm 1977, Rumsfeld bị gài, bị tố cáo, và vướng nhiều vụ kiện tụng. Khi đó chủ trương cải cách quân sự của ông rất quyết liệt, rất sáng tạo, nhưng có phần chủ quan nóng vội sau khi quân viễn chinh Mỹ thất bại trước Việt Nam. Người ta cho rằng ông bị chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi sinh ra tự ái dân tộc và tạo ra sự nóng vội, thiếu chín chắn. Người thì cáo buộc rằng ông muốn nổi danh. Có người còn nghi ngờ ông là gián điệp của KGB Liên Xô muốn gây bất hòa, chia rẽ trong quân đội Mỹ. Tất cả sự hãm hại, bôi đen đó đều do nhóm lợi ích quân đội đứng sau gài bẫy và ông bị áp lực phải thôi chức vụ trong quân đội. Ông đành phải ra ngoài kinh doanh và làm chính trị. Cho đến khi Bush thân hành mời Rumsfeld ngồi chiếc ghế Bộ trưởng quốc phòng, ông ta trở lại và phục vụ đến năm 2006 thì về hưu vì lý do sức khỏe và tuổi tác.


Rumsfeld với tổng thống Ford năm 1975. Từ khi làm cố vấn cho Nixon năm 1969, Rumsfeld đã nếm trải nhiều cay đắng với kết quả thất bại của Mỹ tại Việt Nam. Một mình Rumsfeld không có khả năng làm xoay chuyển “bàn cờ” Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ 1, trước khi ra đi thì ông đã kịp xây dựng một cơ sở nghiên cứu cao cấp, bằng các phương tiện công nghệ cao. Trong nhiệm kỳ 2, từ những kết quả nghiên cứu đó, ông đã hình thành hoàn chỉnh “học thuyết Rumsfeld” và trình lên tổng thống.

Từ khi “xuống núi”, phục vụ trong nhiệm kỳ 2, Rumsfeld được sự ưu ái của tổng thống và sự ủng hộ của phe cấp tiến, phe xuất thân dân sự trong chính phủ Mỹ. Tuy nhiên các quân binh chủng hải quân, bộ binh, thủy quân lục chiến, tuần duyên đã không cam lòng, không thỏa mãn với vai trò phụ, hầu như chỉ làm viên gạch lót đường cho quân chủng không quân, và để mọi quân công, thành tích, danh vọng và ngân quỹ vào tay quân chủng không quân. Họ cảm thấy bị đe dọa vị thế và quyền lực, lợi ích. Họ sợ bị cho ra rìa. Nhiều cuộc tranh luận gay gắt và nhiều lần to tiếng giữa ngoại trưởng Colin Powell và Donald Rumsfeld đã xảy ra.

Rumsfeld đề ra và kiến nghị một lý thuyết quân sự mới: “Tấn công chớp nhoáng chính xác”. “Chính xác” liên quan tới “trí thức hóa” chiến tranh. Có thể gọi đây là những nỗ lực “trí thức hóa” chiến tranh để “biệt kích hóa”, “đặc nhiệm hóa” chiến tranh, vì nó có hiệu quả giống như các nhóm biệt kích, đặc nhiệm.

Quan điểm truyền thống của phe bảo thủ đứng đầu bởi Powell cho rằng những lực lượng to lớn dưới đất phải được sử dụng, và phải phối hợp với các cuộc hành quân của các đơn vị nặng. Ông cho rằng không quân là cánh tay, bộ binh là đôi chân. Đôi tay có thể đánh đấm tùy thích, nhưng đôi chân mới là cái dùng để bước vào nhà địch. Do đó không có chân thì không thể được. Đôi chân phải vững như đứng tấn trong võ thuật. Còn vấn đề gốc rễ, trọng yếu nhất trong học thuyết Rumsfeld là quân đội phải được cải tổ thành những nhóm chiến đấu nhỏ hơn nhưng dễ triển khai và năng động, linh hoạt hơn.


Colin Powell và George W. Bush. Powell là một viên chỉ huy, một nhà lãnh đạo quân sự uy tín, có tài động viên quân đội, có công trong Chiến tranh Vùng Vịnh. Nhưng từ ngày Bush “thỉnh” Rumsfeld “tái xuất giang hồ” thì quan hệ giữa hai người lạnh nhạt dần.

Thật ra chỉ sau cuộc chiến Iraq thì quan điểm của Rumsfeld mới thắng dứt điểm quan điểm của Powell. Cuộc chiến này xảy ra trong thời điểm Hoa Kỳ có ưu thế tuyệt đối về quân đội, hỏa lực, vũ khí, công nghệ, chính trị. Quân đội Hoa Kỳ đã tốc chiến tốc thắng trong cuộc chiến không cân sức này. Sư đoàn 3 Cơ khí rời Nasiriyah và Najaf, nơi đang đánh nhau dữ dội, rồi hành quân đường dài xa hàng trăm km về thủ đô Baghdad, và lập kỷ lục chiến sử mới về hành quân thọc sâu. Tốc độ tiến quân của quân đội Mỹ bằng hoặc hơn quân đội Hitler khi tấn công chớp choáng Liên Xô.

Nhưng trong cuộc chiến đó, sức tiến công của lục quân Hoa Kỳ đã không thể thần tốc như vậy nếu không có sự yểm trợ từ không lực áp đảo. Trong khi suốt 12 năm trước cuộc chiến, thì Mỹ đã “lập vùng cấm bay”, xâm chiếm không phận Iraq và “chặn họng” không lực Iraq. Sự vắng mặt của không quân Iraq đồng nghĩa với việc tinh thần quân đội Iraq đã bị Mỹ “đè đầu” dần. 12 năm với vùng cấm bay, dội bom, thám sát, dùng cả máy bay quân sự và bong bóng dân sự rải truyền đơn, rải đô la Mỹ, đã làm sa sút dần tinh thần, ý chí của quân đội Iraq. Chiến tranh ném bom kết hợp chặt chẽ với chiến tranh tâm lý và chiến tranh công nghệ cao chính là những lý luận vỡ lòng, cơ bản nhất của học thuyết quân sự Rumsfeld sau nhiều năm nghiên cứu tỉ mỉ, chu đáo.


Rumsfeld được Reagan đặc phái đi Iraq gặp Saddam Hussein trong cuộc chiến Iran – Iraq năm 1983, ca ngợi Hussein và giúp đỡ, viện trợ cho Iraq chống Iran. Đúng 20 năm sau, Rumsfeld quay lại Iraq với vai trò và nhiệm vụ trái ngược, lần này với tư cách là Bộ trưởng quốc phòng dưới trướng Bush, nắm quyền chỉ đạo cuộc chiến Iraq năm 2003.

Trên chiến trường Iraq khi đó, tốc độ tiến quân nhanh mà bộ binh Mỹ có được là vì không quân Mỹ đã làm chủ bầu trời và tung hoành ngang dọc, tha hồ tự do oanh tạc, không kích, quét sạch mọi trở lực. Mỗi khi bộ binh Hoa Kỳ gặp bất kỳ sự kháng cự nào của quân đội Iraq thì họ không ham đánh mà họ tránh đi và chờ các đồng đội chiến hữu không quân vào “làm việc”.

Quân đội Mỹ “không thèm” đánh chiếm bất kỳ tỉnh thành nào trong cuộc chiến ngoài thành phố Baghdad, thủ đô của Iraq. Ngay cả trong thủ đô Baghdad mà Saddam Hussein kêu gọi tử thủ bằng một cuộc tử chiến cuối cùng trên đường phố, cho rằng lính Mỹ không quen tác chiến trong thành phố, thì bộ binh Mỹ cũng không cần đánh trận nào lớn.

Quân đội Mỹ chỉ cần dùng tâm lý chiến, vừa dọa vừa dụ, vừa vung cao cây gậy vừa nhử bằng củ cà rốt, trong đó có cả dùng lợi ích vật chất để hối lộ, họ đưa ra những tờ đô la Mỹ bôi trơn các quan chức cấp cao của lực lượng Vệ binh Cộng hòa để thôi chống cự. Một số chuyên gia quân sự ở châu Âu sau khi nghiên cứu lại cuộc chiến, đã cho rằng không quân Mỹ đóng góp 95% cho chiến thắng này, trong khi lục quân chỉ góp 5%.

Thành quả cuộc chiến đã chứng minh quan điểm của Rumsfeld là đúng. Ngày 26 tháng tư 2003, Rumsfeld đến Vùng Vịnh thị sát quân đội. Khi ông tới thì những tràng pháo tay và những tiếng reo mừng đón chào đã nổi lên, nhất là từ các chiến sĩ không quân.

Chiến thắng của Rumsfeld không chỉ với quân đội Iraq, với Powell và phe bảo thủ trong quân đội Hoa Kỳ, mà còn cả với học thuyết quân sự Liên Xô/Nga. Những dữ kiện này đã cho thấy một đội quân uyển chuyển hơn, linh động hơn, tính cơ động cao hơn, thì dù cỡ nhỏ hơn, sẽ tuyệt đối thắng một đội quân lớn nhưng rườm rà, chậm chạp và vướng đầy những quan niệm lối mòn quân sự cũ kỹ, lạc hậu, lỗi thời như Iraq.

Quân đội Iraq là một quân đội lớn. Và theo cách dàn đại quân của Liên Xô cũ, Iraq tập trung số lượng lớn đơn vị xe tăng, xe bọc thép, và pháo binh, với các bộ chỉ huy tập trung cao độ. Nhưng tuyến phòng thủ trông bề ngoài hoành tráng “dễ sợ” đó đã bị một ít không quân Hoa Kỳ phá sạch chỉ trong mấy ngày. Nhiều chuyên gia quân sự Nga sau khi nhìn lại, xem xét và nghiên cứu kỹ về chiến tranh Iraq đã giật mình thốt lên: Mô hình quân sự đã bị viết lại. Các nước khác nên chú ý là Hoa Kỳ đã viết lại các giáo trình quân sự.

Rumsfeld làm rõ ba tiêu chuẩn đánh giá sức chiến đấu: Khoảng cách tấn công, tốc độ tiến công và sức hủy diệt. Và so với không quân thì bộ binh tụt hậu về cả ba phương diện, thường quá lớn về cỡ và không uyển chuyển về hoạt động. Và nó dễ bị sa lầy trong những cuộc chiến tranh kéo dài nơi đất khách.

Không quân loại bớt được sự bất lợi về yếu tố địa lợi trong một cuộc tấn công quân sự. Không quân có thể chiến thắng trước mọi quân binh chủng khác. Vì không quân với tốc độ chớp nhoáng, có thể đập cú chết người vào tâm điểm địch quân. Bên đạt ưu thế bầu trời trước sẽ có ưu thế quyết định trong chiến tranh. Một quốc gia mất quyền làm chủ bầu trời sẽ chịu thiệt hại to lớn.

Như vậy, ai làm chủ bầu trời có nghĩa là chiến thắng. Những quốc gia thất bại trong việc làm chủ bầu trời chịu số phận thất bại và phải chấp nhận mọi điều kiện bên thắng đưa ra. Chỉ có Việt Nam là phá vỡ được quy luật này, đặc biệt bằng trận Điện Biên Phủ trên không.

Xu hướng chiến tranh của Mỹ trong tương lai là gì?

Một số sĩ quan Việt Nam nghiên cứu xu hướng quân sự Hoa Kỳ và tiên đoán rằng chiến tranh tương lai của Mỹ có thể sẽ là tận dụng máy bay siêu thanh, máy bay không người lái để phát triển chiến tranh “không giáp mặt”. Ngày nay cả 5 yếu tố bầu trời, vũ trụ, mặt đất, đại dương, và điện tử được hòa làm 1, nên xu hướng chiến tranh “không giáp mặt” ngày càng rõ nét.

Năm 2000, Hoa Kỳ đưa ra chiến lược “cảnh báo toàn cầu, mục tiêu toàn cầu và sức mạnh toàn cầu”, theo đó chiến đấu cơ vũ trụ có thể bay vào không gian và tấn công một mục tiêu dưới đất trong chưa đầy một tiếng. Năm 2020, theo dự kiến, không quân Hoa Kỳ sẽ có 4 lớp: Lớp B-2, lớp F-22, lớp phi cơ tiềm kích hỗn hợp và lớp chiến đấu cơ không người lái, tất cả đều có đặc tính siêu tàng hình.

Nhiều nguyên tắc chiến tranh tương lai của Hoa Kỳ thực ra đã được vô tình “bật mí” trong chiến tranh Iraq. Ví dụ việc sử dụng rộng rãi các oanh tạc cơ tàng hình và máy bay không người lái.

Trong suốt cuộc chiến Iraq, không có trận không chiến nào, cũng không có trận đấu tăng nào. Khi có một cơn bão cát, Vệ binh Cộng hòa Iraq cố tận dụng và đưa hơn ngàn chiếc tăng phản kích địch. Nhưng ngay khi di chuyển, đã bị máy bay và vệ tinh trinh sát của Mỹ phát hiện. Kết quả, họ bị trực thăng và những đơn vị phối hợp đè bẹp và tàn sát. Giấc mơ có trận đấu tăng quyết định ở Kirsk tan theo từng đợt bom Mỹ.


Oanh tạc cơ không người lái X-47B của Mỹ

Trên chiến trường Libya, các máy bay không người lái của Mỹ đã san bằng quân đội nước này, làm được những việc mà các máy bay ném bom, máy bay chiến đấu của NATO đã không làm được trước đó, dù với số lượng gấp đôi, gấp chục. Những dấu hiệu này phần nào cho thấy có lẽ thời đại chiến tranh không người lái, chiến tranh công nghệ cao, chiến tranh không giáp mặt đang tới gần.

Tên lửa thông minh và bom thông minh được tia laser dẫn đường sẽ rơi như mưa đá trên trời xuống. Ngay cả chiến đấu cơ cũng sẽ là tàng hình, dù là không người lái. Thực tế quân đội Hoa Kỳ đã ngưng đánh mặt đối mặt với địch thủ từ sau cuộc chiến Việt Nam. Họ đã đi trước các đối thủ xa. Về mặt kỹ thuật, công nghệ chiến tranh, không có thế lực quân sự nào hiện nay chạy đua nổi với Hoa Kỳ.

Một số sử gia phương Tây cho rằng trong lịch sử nhân loại, chưa bao giờ có một đế quốc có tầm kiểm soát toàn cầu và khả năng can thiệp áp đảo và lộ liễu như Hoa Kỳ. Hai thập niên trước, Hoa Kỳ vẫn thỉnh thoảng còn có khả năng bị địch thủ nhỏ hơn và yếu hơn đánh bại trong một vài trận chiến nhỏ lẻ. Còn Hoa Kỳ ngày nay gần như đã trở thành “thiên hạ vô địch”.

Cách thiên hạ đánh nhau cũng bị Hoa Kỳ làm cho thay đổi. Nhiều học thuyết quân sự cũng bị Mỹ cho vào sọt rác. Hoa Kỳ đã “cách mạng hóa” tư duy quân sự, văn hóa quân sự, thói quen quân sự, và cách thức tiến hành chiến tranh trên thế giới. Từ đây, thế giới này không còn như xưa.


Vũ khí siêu thanh tiên tiến bay với tốc độ gấp 5 lần âm thanh và có thể tấn công mọi mục tiêu trên trái đất. Đỉnh cao của tác chiến tầm xa và chiến tranh không giáp mặt.

Các siêu máy tính của Mỹ đã có những kết quả thống kê cho thấy trong lịch sử chiến tranh thế giới từ cổ đại đến cận đại, đội quân nào mạnh về đánh xa hơn (xạ tiễn chính xác, nhiều cung nỏ), hoặc đội quân nào có tốc độ cao hơn, thì xác suất chiến thắng càng cao. Xác suất chiến thắng của kỵ binh so với bộ binh thì gần như một trời một vực.

Tóm lại là càng nhanh càng tốt, càng xa càng tốt, quân đội nào phóng lao, bắn tên được xa hơn, có máy bắn đá ném được xa hơn, thì xác suất thắng càng cao. Lực lượng không quân và máy bay chiến đấu chính là khai thác và tận dụng tối đa hai ưu điểm đó (tốc độ và đánh tầm xa).

Thiết kỵ xác định vị thế đế chế La Mã, xạ kỵ xác định vị thế bá chủ của vó ngựa Nguyên Mông và đưa tên tuổi của Thành Cát Tư Hãn vào lịch sử thế giới cổ kim, các đội “kỵ binh bay” xác định vị thế đế quốc Mỹ. Cái đáng sợ là tốc độ, độ cao, khả năng đánh xa của Mỹ ngày nay đã bỏ xa các nước còn lại. Chứ không để người khác theo kịp phía sau như vó ngựa Mông Cổ và La Mã xưa.

Hoa Kỳ muốn thiết lập chỗ đứng như một siêu cường áp đảo nhất trong lịch sử thế giới bằng không quân của mình. Không lực Hoa Kỳ có kế hoạch làm cho họ có thể có mặt tại bất kỳ nơi nào trên hành tinh, vào bất cứ lúc nào, chỉ trong tương lai gần.


Lính Mỹ điều khiển máy bay tự sát

Từ đó, hầu hết động thái quân sự của Hoa Kỳ đều căn cứ trên cơ sở toán học, xác suất học, tin học, dựa trên các xác suất thống kê, để có hiệu quả tối ưu. Và từ những kết quả thống kê đó, chính phủ và bộ quốc phòng Mỹ đã đặt trọng tâm vào phát triển quân chủng không quân và sản xuất máy bay tàng hình, máy bay siêu âm, máy bay không người lái….

Học thuyết quân sự Rumsfeld và các thử nghiệm của giới khoa học, toán học, xác suất học quân sự Mỹ, đứng đầu bởi ông Rumsfeld trong nhiều năm, đã mở ra một bước ngoặt mới và trang sử mới cho quân sự Hoa Kỳ và thế giới.

Tổng kết

Điện Biên Phủ trên không là một thiên anh hùng ca bi tráng, là bản hùng ca bất tử bất diệt, và còn là nước cờ chiến lược độc đáo, thể hiện ý chí sắt đá bất khuất, quật khởi kiên cường, trái tim và trí tuệ Việt Nam.

Ngày xưa, vó ngựa Mông Cổ trăm trận trăm thắng và gây khiếp đảm khắp Á – Âu và chúng đã kéo cả bầy vào Thăng Long. Quân ta cho chúng tạm “ở trọ” rồi sau đó đánh đuổi chúng đi. Ngày nay, những con “chim ưng sắt” Hoa Kỳ bất khả chiến bại, với lực lượng không quân và những con “diều hâu lửa” đã gây run sợ khắp Đông – Tây, chưa bao giờ bị bắn trúng, chưa bao giờ bị đánh bại, và chúng đã kéo cả đàn bay vào Hà Nội.

Thành phố Hà Nội lúc này không còn là thành Hà Nội năm 1882 khi chỉ có 400 quân Pháp thành công chiếm thành, khiến lão tướng Hoàng Diệu anh dũng tuẫn quốc. Hà Nội năm 1972, trong 12 ngày đêm lịch sử, 5 cửa ô Hà Nội đã giương cao nòng súng đãi giặc. Già trẻ lớn bé, nam nữ lão ấu, đều đồng lòng đoàn kết, chung sức chung lòng đánh giặc giữ vững thủ đô. “Rồng lửa Thăng Long” liên tục phun lửa làm cho hàng hàng lớp lớp ó đen Hoa Kỳ rơi rụng như lá mùa thu.

Chiến dịch Linebacker II mà nhiều người Mỹ gọi là chiến dịch “Ném bom lễ Giáng sinh” (Christmas Bombing) như để tố cáo bản chất phi nhân tính, vô nhân đạo của nó, đã thất bại nhục nhã, đàn chim sắt Mỹ bị bắn tan xác, giặc lái Mỹ bị các “o du kích nhỏ” tóm gọn, áp giải.


Tác phẩm “O du kích nhỏ”, một trong những kiệt tác nhiếp ảnh nổi tiếng của nghệ sĩ Phan Thoan. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh không quân Hoa Kỳ oanh tạc dữ dội miền Bắc năm 1965. Trong ảnh là nữ du kích Nguyễn Thị Kim Lai và giặc lái Mỹ William Robinson. Khi xem bức ảnh này năm 1966, nhà thơ Tố Hữu đã “xuất khẩu thành thơ”, vịnh bức ảnh bằng 4 câu thơ: “O du kích nhỏ giương cao súng. Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu. Ra thế! To gan hơn béo bụng. Anh hùng đâu cứ phải mày râu!” Tác phẩm này là một trong những nguồn cảm hứng động viên các chiến sĩ phòng không đánh giặc năm 1972.

Một trận đánh lịch sử, một trận quyết chiến chiến lược đã đi vào huyền thoại, hoàn toàn có thể sánh được với huyền thoại Điện Biên Phủ (trên bộ). Trong “Điện Biên Phủ trên bộ”, giặc Pháp phải chiến đấu trong chảo lửa Điện Biên. Quân ta có ưu thế độ cao, chiến đấu từ trên cao. Trong Điện Biên Phủ trên không, giặc Mỹ lại là bọn chiến đấu từ trên cao. Sau Điện Biên Phủ trên bộ, hiệp định Genève quy định quân ta phải tập kết về Bắc và phải chờ hai năm thì quân Pháp mới rút hẳn và tổ chức tổng tuyển cử, rồi Mỹ vào thay chân Pháp….

Sau Điện Biên Phủ trên không, hiệp định Paris quy định quân ta có quyền ở bất kỳ nơi đâu trên lãnh thổ Việt Nam, và quân Mỹ phải rút ngay và tổ chức tổng tuyển cử ngay sau đó. Lần này không có ai thay chân Mỹ. Quân ta tiến lên giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành đại nghiệp giải phóng dân tộc, chính thức khép lại những cuộc trường chinh dài đằng đẵng kể từ khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858 rồi sau đó xâm chiếm Việt Nam….

Những diễn biến này cho thấy rằng về hiệu quả chiến thuật và chiến lược, ở cả quân sự và chính trị, thì Điện Biên Phủ trên không cũng không kém gì nhiều so với Điện Biên Phủ trên bộ.

Về ý nghĩa lịch sử, đại thắng Điện Biên Phủ trên không cũng như bao nhiêu trận quyết chiến chiến lược hào hùng đánh giặc xâm lăng trong lịch sử, nó mang ý nghĩa trọng đại của văn hóa truyền thống “tiếp bước đời trước – truyền lửa đời sau” của dân tộc Việt Nam anh hùng. Như một tuyên ngôn về sức sống trường tồn vĩnh cửu của dân tộc Việt Nam. Không kẻ thù nào có thể phá vỡ được, dù cho họ mạnh hay đông đến đâu. Dù đẳng cấp, trình độ phát triển của họ đi trước trên ta bao nhiêu lâu.

Những chiến công vang dội này có tác dụng cổ vũ, hâm nóng tinh thần yêu nước của các thế hệ mai sau và cũng để răn đe các thế lực ngoại xâm trong tương lai, làm cho tất cả đều hiểu rằng dù khó khăn đến mức độ nào thì Việt Nam chắc chắn cũng sẽ giành chiến thắng chung cuộc, dù đó là những kỳ công cả thế giới không ai làm được trong lịch sử.

Người Việt Nam đã làm nên những chiến công, kỳ tích khó hiểu mà đến nay, dù đã trải qua cả vạn hội luận, hội thảo chuyên đề, hàng chục vạn sách vở bài báo, thậm chí dùng cả siêu máy tính, siêu phần mềm để tính toán, phân tích, mà đến giờ này ở Mỹ vẫn chưa có kết luận rõ ràng làm sao mà họ có thể thua được.

Về ý nghĩa chính trị – quân sự, chiến thắng Điện Biên Phủ trên không đã triệt để đập tan áp lực đòi Việt Nam nhượng bộ và yêu cầu hoang tưởng của phía Mỹ đòi Việt Nam rút quân khỏi vùng miền của Việt Nam. Kết quả trận đấu trí – đấu lực này đã buộc chính phía Mỹ phải rút quân khỏi vùng miền của Việt Nam.

Sau khi “đánh cho Mỹ cút”, cuộc chiến đã mở ra một trang mới, tạo ra bước ngoặt chiến tranh mới, thuận lợi nhất, dễ dàng nhất để tiến lên dứt điểm “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất hoàn toàn đất nước, đem lại cảnh thái bình, độc lập tự do.


Bài thơ chúc Tết năm 1969 của chủ tịch Hồ Chí Minh (Bảo tàng Hồ Chí Minh ở Sài Gòn)

Miền Bắc không còn tiếng hú báo động từ loa phường kêu gọi đồng bào mau xuống hầm trú ẩn, không còn cảnh tản cư tránh bom đạn, không còn cảnh mưa bom bão đạn kẻ thù giáng xuống, không còn những ngôi nhà, chung cư, khu phố, bệnh viện, trường học, nhà máy, nhà thờ, chùa chiền, di tích lịch sử bị bom giặc tàn phá.

Miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn đì đùng, không còn những ngày đêm vùng vẫy trong trại tập trung “Ấp Chiến Lược”, không còn những ngày đêm bị càn bị quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố trắng, thảm sát man rợ và những tội ác dã man mà nhiều người gọi là những tội ác diệt chủng, chống loài người.

Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, “ba sạch” (phá sạch, giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết. Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương và xả súng giết tập thể. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, “lê máy chém” khắp nơi.

Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008: “Most people in our company didn’t consider the Vietnamese human”. Không còn những thảm kịch cắt đầu, xẻo tai, xẻo thịt, xẻo vú phụ nữ. Bom đạn và chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất miền Nam, người miền Nam.

Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, giết chóc một bộ phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết “tổng thống” ngụy. Không còn những lần người Mỹ thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào đất chết. Không còn cảnh tượng lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con và người thân của lính ngụy. Không còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son kỹ lưỡng với những chiếc váy không thể ngắn hơn đứng đầy đường công khai giữa ban ngày chào mời lính Mỹ.

Không còn cảnh những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai mọc lên như nấm, gần 100 vạn quân viễn chinh tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra gì, tự do cướp – hiếp – giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên quyền con người. Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai Mỹ, trong đó có hàng vạn trẻ mồ côi. Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, lựu đạn cay, roi điện, súng đạn. Những sân trường không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên ngã xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.

oOo

Về bên thua cuộc, Điện Biên Phủ trên không và kết cục của cuộc chiến Việt Nam đã trở thành một “Giáng sinh kinh hoàng” của không quân Mỹ, một bài học lớn của nước Mỹ, đồng thời hai tiếng “Việt Nam” có một thời gian đã trở thành cơn ác mộng và nỗi ám ảnh của họ. “Biến cố Việt Nam” đã trở thành một vết thương không bao giờ phai mờ, một nỗi đau nỗi nhục không bao giờ quên hẳn, một bài học đến nay vẫn chưa nghiên cứu hết, của Hoa Kỳ.

Nhiều cựu quân nhân Mỹ từng chinh chiến ở Việt Nam (Vietnam veterans) khi thỉnh giảng trong các trường học Mỹ, đã thú nhận khái niệm “American pride” (niềm tự hào Mỹ) đã bị sự kiện Việt Nam làm cho hoen ố, đã trở thành một tỳ vết, một vết nhơ không thể nào rửa sạch. Và rằng mỗi khi họ nghe ai nói đến “American pride” thì họ lại nghĩ đến chiến tranh Việt Nam và đau lòng, uất ức, không thoải mái, không cam lòng. Và hai tiếng “Việt Nam” ám ảnh trong đầu họ mỗi khi nghe quốc ca, chào quốc kỳ.

Sau khi thất bại trong chiến dịch Linebacker II và hoàn toàn thua hẳn hai năm sau đó, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục phát triển quân lực, đặt trọng tâm vào quân chủng không quân và khoa học công nghệ cao. Chính phủ Mỹ đã tích cực chi thêm cho ngân sách quốc phòng, cải tiến năng lực chiến đấu của quân đội, đầu tư mạnh vào khoa học công nghệ quân sự, phát triển và nâng cấp quân chủng không quân mạnh mẽ hơn nữa. Họ xem lại tất cả, thẩm định và đánh giá lại tất cả, viết lại giáo trình quân sự.

Những bài học, kinh nghiệm từ chiến tranh Việt Nam được nghiên cứu, rà soát, đúc kết, rút kinh nghiệm. Ý tưởng mới được đưa vào nghiên cứu. Các dự án lớn được đưa vào thực hiện. Các loại vũ khí, thiết bị mới được phát minh, sản xuất. Chương trình huấn luyện mới được đưa vào quân trường. Giáo trình quân sự được viết mới, cập nhật cẩn mật các bài học nhớ đời, kinh nghiệm đau thương ở Việt Nam.

Kể từ đó, quân đội Mỹ không còn biết thua là gì, khái niệm “thua trận” hầu như không còn tồn tại trong tự điển quân sự Mỹ. Hai ba thập kỷ gần đây, mỗi khi Mỹ cất quân đánh ai là dư luận không còn ai nghi ngờ kết quả, không còn ai đặt câu hỏi rằng họ sẽ thua hay thắng, thay vào đó là câu hỏi thực tế hơn: Họ cần bao nhiêu giờ để thắng.

Hiện nay quân chủng không quân Hoa Kỳ đã phát triển cực cao, phát triển đến máy bay siêu thanh và không người lái. Trước chiến tranh Mỹ – Việt, quân đội Mỹ là một đội quân khó địch. Sau chiến tranh, quân đội này đã trở thành một đội quân vô địch. Nỗi nhục trên chiến trường Hà Nội và Việt Nam đã biến không quân và quân đội Mỹ thành một lực lượng đáng sợ mà thế giới này chưa bao giờ thấy.

Thiếu Long

Tài liệu tham khảo

Việt Nam:

– Tác giả: Võ Nguyên Giáp – Hồi ký: Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng – Năm xuất bản: 2005
– Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam – Ban biên soạn: Gs. NGND Phan Huy Lê, Nhà sử học Dương Trung Quốc, Trần Xuân Thanh – Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia – Năm xuất bản: 2010
– Hồ Khang, Tết Mậu Thân 1968: Bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Nội: Nxb Quân đội Nhân dân, 2005.
– Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kissinger tại Paris – Tác giả: Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ – Nhà xuất bản: Công an Nhân dân – Năm xuất bản: 2002
– Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975 – Tập 7 và 8 – Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia – Năm xuất bản: 1996
– Bí mật những chiến dịch không kích của Mỹ vào Bắc Việt Nam. Tác giả: Cảnh Dương, Đông A. Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân. Năm xuất bản: 2007

Hoa Kỳ:

– Tucker, Spencer. ed. Encyclopedia of the Vietnam War (1998) 3 vol. reference set; also one-volume abridgement (2001)
– Chiến tranh Việt Nam-Được và Mất – Nigel Cawthorne – NXB Đà Nẵng
– Sự lừa dối hào nhoáng – Tác giả: Neil Sheehan – Người dịch: Đoàn Doãn – Nhà xuất bản Công An Nhân Dân – Năm 2003
– Nhìn lại quá khứ – Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam – Tác giả: Robert McNamara – Người dịch: Hồ Chính Hạnh, Huy Bình, Thu Thủy, Minh Nga – Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia – Năm xuất bản: 1995
– Hồ sơ mật Dinh Độc Lập (The Palace File) – Tác giả: Nguyễn Tiến Hưng – Harper & Row Publishers – 1986
– Cuộc chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt Nam 1950-1975 – Tác giả: George C. Herring – Người dịch: Phạm Ngọc Thạch – Nhà xuất bản: Công an Nhân dân – Năm xuất bản: 2004
– Kill Anything That Moves: U.S. War Crimes And Atrocities In Vietnam, 1965-1973 (Giết tất cả những gì nhúc nhích: Tội ác chiến tranh hung bạo của Mỹ ở Việt Nam), Nick Turse, NXB Đại học Columbia, 2005
– Boyne, Walter J. Beyond the Wild Blue: A History of the U.S. Air Force, 1947–2007, 2007
– Robert Frank Futrell. Ideas, Concepts, Doctrine: A History of Basic Thinking in the United States Air Force, 1979
– Robert Doughty. American Military History and the Evolution of Western Warfare, 1996
– Chester G. Hearn. Air Force: An Illustrated History: The U.S. Air Force from 1910 to the 21st Century, 2008
– Millett, Allan R. Semper Fidelis. A History of the United States Marine Corps, 1991
– Sweeney, Jerry K., và Kevin B. Byrne, eds. A Handbook of American Military History: From the – Revolutionary War to the Present, 1997
– Esposito, Vincent J. Học viện quân sự West Point Atlas of American Wars. New York: Frederick A. Praeger, 1959.
– Esposito, Vincent J. The West Point Atlas of American Wars: 1900-1918, 1997
– Griess, Thomas E. West Point Atlas for the Second World War: Asia and the Pacific, 2002
– Griess, Thomas E. The West Point Atlas for Modern Warfare, 2011
– Thiếu tá James H. Kean – Hồ sơ SSN/0802 USMC, bản báo cáo After Action Report 17/4/1975 – 7/5/1975
– George R. Dunham – U.S. Marines in Vietnam: The Bitter End, 1973-1975 (Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở Việt Nam: Sự kết thúc cay đắng, 1973-1975) – Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ xuất bản năm 1990

– Tài liệu Internet

Theo Thiếu Long’s blog