Từ giữa thế kỷ 19, thực dân Pháp và tư bản phương Tây đã chạy đua tranh đoạt giành nhau thị trường ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, trong đó Đông Dương và Việt Nam chiếm một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về địa chính trị, địa kinh tế, giàu tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân công lao động “rẻ mạt”.
Trong thời gian can thiệp ở Việt Nam từ năm 1950 đến 1975, và cả trước đó, Hoa Kỳ đã quan tâm đến những nguồn lợi ở Việt Nam và khu vực Đông Dương, các nguồn tài nguyên, khoáng sản, các sản phẩm chiến lược, lúa gạo, cao su, những nguồn cung cấp nhân công, thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Ngày 12/2/1950, mục Xã Luận báo New York Times viết: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn, nó có thể xuất khẩu thiếc, vonfram, mangan, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu, và da thuộc. Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai II, lợi tức thu được ở Đông Dương đã tới khoảng 300 triệu đôla hàng năm.” (trên 3,2 tỷ USD theo thời giá năm 2020)
Tổng thống Mỹ Eisenhower trong diễn văn ngày 4/8/1953 tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington đã nói: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc, vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không thuộc về tay chúng ta nữa. Chúng ta đang tìm cách nào rẻ tiền nhất để ngăn chặn điều bất hạnh có thể xảy đến, đó là việc mất khả năng lấy được những thứ gì chúng ta muốn lấy từ số tài nguyên giàu có của Đông Dương và Đông Nam Á.”
Thư của Eisenhower gửi thủ tướng Anh Churchill ngày 4/4/1954 viết: “Nếu người Pháp không thắng được trong cuộc chiến tranh này thì vị trí chiến lược toàn cầu của chúng tôi cũng như của các ngài có thể sẽ trở thành thảm họa.”
Phát biểu tại Quốc hội Mỹ năm 1956, ông John Kennedy, khi đó là thượng nghị sĩ, sau này là Tổng thống, nói: “Nam Việt Nam đang giới thiệu một sự thí nghiệm về trách nhiệm và quyết tâm của người Mỹ ở châu Á. Chúng ta đã khai sinh ra nó. Nó là sản phẩm của chúng ta. Chúng ta không thể bỏ rơi nó. Nước Mỹ nhất định sẽ gánh lấy trách nhiệm. Uy danh của chúng ta nhất định sẽ nâng lên một bước mới”.
Trong số các tài nguyên và sản phẩm của Đông Dương có những thứ đối với nền công nghiệp hoặc thị trường nội địa của Mỹ, không phải là cần thiết trực tiếp, hoặc không cần tới mức gay gắt như vậy. Nhưng đối với lợi ích toàn cầu của Mỹ, thì đó là những thứ cần phải nắm lấy để chi phối thị trường thế giới (trường hợp gạo, cao su, than đá, dầu mỏ, vv.).
Cũng vì thế ngay từ trước khi xâm lược Miền Nam Việt Nam, Mỹ đã tìm đường nắm lấy nhiều sản phẩm quan trọng của Đông Dương. Lúc đó, Mỹ chưa mua nhiều thóc gạo, vì thóc gạo chưa quan trọng chiến lược như sau này. Nhưng cao su thì ngay từ trước đại chiến thế giới thứ II Mỹ đã mua khá nhiều. Từ năm 1930 đến 1939, Mỹ đã mua 39% tổng số cao su xuất khẩu của Đông Dương. Thời kỳ từ 1946 đến 1950 cao su chiếm 98% giá trị hàng hàng hóa của Đông Dương bán cho Mỹ.
Đối với Mỹ, “miếng mồi” Đông Dương không phải chỉ xuất hiện từ những năm trong và sau Thế chiến II mà đã có từ lâu. Chính sách bành trướng cổ điển của Mỹ mà trùm tài phiệt Rockefeller đã tổng kết trong một lá thư gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower: “Cho thương mại đi trước, cờ Mỹ sẽ đến sau”(1). Chính sách đó đã được Mỹ thực hiện ở Việt Nam.
Theo tạp chí “Những người bạn của cố đô Huế” bản tiếng Pháp (2), ngay từ năm 1819, tức là 36 năm sau khi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập, những tàu chiến Mỹ đã tới Việt Nam, dò tìm đường sông Đồng Nai lên Sài Gòn. Sau đó hơn 10 năm (1832) một số thuyền buôn Mỹ lại xuất hiện ở vùng biển Trung Bộ, thả neo ở Vũng Lâm, Phú Yên.
Tiếp đó, năm 1836, tàu chiến Mỹ lại xuất hiện ở vịnh Sơn Trà (Đà Nẵng). Một tàu Mỹ có tên là Constitution đã xâm phạm lãnh thổ, dò thám, vẽ bản đồ, nghiên cứu và ghi chú địa hình, khí hậu, thủy thổ, truyền đạo và tạo điều kiện cho Pháp đánh phá Việt Nam năm 1845.
Như vậy, ngay từ khi mới lập quốc thì thế lực bành trướng toàn cầu của Mỹ đã sang bờ Thái Bình Dương. Nhưng thời điểm đó người Mỹ chưa thể chen chân được với các đế quốc tư bản thực dân đàn anh như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha.
Tuy nhiên, sau Thế chiến I, địa vị của Mỹ đã thay đổi. Lợi dụng, trục lợi nhờ chiến tranh nên Mỹ đã giàu lên và trở thành một cường quốc hùng mạnh, từng bước chen chân vào trường đấu tranh đòi quyền thuộc địa của mình trong số những quốc gia thực dân giàu mạnh.
Với “Chương trình 14 điểm” của Tổng thống Wilson, Mỹ đã gây được ảnh hưởng lớn trong việc xác lập lại “Trật tự thế giới mới” theo hướng có lợi nhất cho Mỹ, mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét là: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn” (3).
Mục tiêu chủ yếu lúc này ở khu vực châu Á của Mỹ là Trung Quốc, Trung Quốc trở thành vấn đề trung tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở châu Á, vì những lợi ích của Mỹ đã giành được ở Trung Quốc đang bị Nhật đe dọa. Do vậy một trong những nội dung chủ yếu chính sách của Mỹ ở châu Á, là tìm mọi cách kiềm chế Nhật ở châu Á Thái Bình Dương.
Năm 1921, chính quyền New York (Mỹ) đã thành lập ban nghiên cứu thuộc địa Pháp – Mỹ, nhằm nghiên cứu khả năng đầu tư vốn vào các thuộc địa của Pháp. Nhân dịp này, viên quan toàn quyền Pháp Albert Sarraut, một chính khách thân Mỹ, đã ngỏ ý mời các đại công ty tư bản Mỹ đầu tư vào Đông Dương (4).
Đến hội nghị Washington (1922), Mỹ đã lên tiếng mặc cả thị trường đối với các cường quốc tư bản, đòi quyền lợi của mình ở Viễn Đông và bờ Thái Bình Dương. Sarraut, lúc này là quyền trưởng đoàn Pháp tham dự hội nghị, đã phát biểu ủng hộ một cách trực quan là: Nước Mỹ, một quốc gia có hai đại dương và có trách nhiệm với hai đại dương ấy.
Tại hội nghị này, thế lực bành trướng của Mỹ đã buộc các cường quốc tư bản còn lại thực hiện chính sách “Mở cửa” (Trung Quốc) cho Mỹ và củng cố được vị trí quân sự, chính trị của mình ở Viễn Đông. Cũng từ đó, Đông Dương được cộng đồng tài phiệt Mỹ quan tâm, ít ra là trong những câu lạc bộ trong giới kinh doanh tài phiệt.
Như vậy, có thể nói Mỹ đã chú ý đến Việt Nam từ giữa thế kỷ 19. Sau đó những nghiên cứu, tìm hiểu về Việt Nam và Đông Dương đã được bộ ngoại giao Mỹ quan tâm ít nhiều. Tuy nhiên trong thời điểm này, Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp.
Với uy tín và ảnh hưởng Pháp trước và sau Thế chiến I đã không cho phép Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương. Song trong chiến lược bành trướng của mình, Mỹ đã bộc lộ ý đồ muốn có chân tại Việt Nam và Đông Dương ngày càng rõ, và đối với Mỹ, vấn đề Đông Dương luôn gắn liền với vấn đề Trung Quốc (5). Mỹ muốn biến Trung Quốc thành địa bàn đứng chân để thực hiện mưu đồ bành trướng và khống chế khu vực.
Thế Chiến II bùng nổ (1939) đã tạo ra một cơ hội tốt cho Mỹ can thiệp sâu rộng vào Việt Nam và Đông Dương. Nước Mỹ, với tính cách của một quốc gia quan tâm tới vấn đề Đông Dương kể từ thời Tổng thống Roosevelt trong những năm đầu của thập niên 20, đã đưa ra ý định thiết lập chế độ “quản thác quốc tế”. Rồi việc Nhật âm mưu xâm lược Đông Dương càng khiến Mỹ nhận thức rõ hơn vị trí và tầm quan trọng của khu vực này, cũng từ đó vấn đề Đông Dương đã trở thành một trong những chủ đề chính của các cuộc thảo luận giữa Mỹ và Nhật (6).
Như vậy, cho đến thời điểm này tuy Mỹ chưa tuyên bố thẳng, nhưng số phận Đông Dương đã có trong dự kiến sắp đặt của Mỹ. Quan điểm thực hiện chế độ “quản thác quốc tế” của Roosevelt đã thể hiện ý đồ sách lược của Mỹ là muốn gạt Pháp khỏi Đông Dương để có thể trực tiếp nắm xứ sở này, một khi hội đủ điều kiện.
Sau khi Roosevelt chết, cùng với nhiều nguyên nhân khác, chính sách của Mỹ đối với Đông Dương có sự thay đổi rõ rệt, Mỹ dần dần từ bỏ thái độ cứng rắn tranh giành đối lập với Pháp. Tuy chưa chính thức ủng hộ việc Pháp trở lại Đông Dương nhưng Pháp cũng được Mỹ tạo cơ hội bỏ ngỏ để trở lại xứ sở này (11).
Truman là người có tư tưởng thực dân, ông ta từng bước điều chỉnh lại chính sách của Roosevelt và bộc lộ rõ hơn khuynh hướng diều hâu đối với các dân tộc thuộc địa bị áp bức và thỏa hiệp với các đế quốc khác, trong đó có đế quốc Pháp, chuẩn bị cho chính sách chống Liên Xô, Trung Quốc và chặn đứng phong trào giải phóng thuộc địa và giải phóng dân tộc sau này.
Đối với Đông Dương, Truman đã bỏ hẳn ý đồ “quản thác quốc tế” thời Roosevelt và vận dụng phương châm “mềm nắn rắn buông”(14) trong quan hệ với các đồng minh lớn của mình. Việc chấp nhận giải pháp chia đôi Đông Dương ở vĩ tuyến 16 mà Mỹ đưa ra tại hội nghị Potsdam (tháng 7, 1945), không đả động đến quyền tự trị của Việt Nam (15) đã đánh dấu sự thỏa hiệp vụ lợi của Mỹ đối với Anh – Pháp.
Như vậy cho thấy, không đợi đến kết thúc chiến tranh Đông Dương, mà ngay trong Thế chiến II, Hoa Kỳ đã có mưu đồ gạt bỏ và thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền nam Việt Nam và kiểm soát Đông Dương, xây dựng một bàn đạp để phát triển thế lực ở Đông Nam Á. Về mặt kinh tế, Mỹ muốn mở rộng thêm thị trường tiêu thụ hàng hóa và vơ vét tài nguyên nông sản và khoáng sản ở Đông Dương.
Mỹ muốn thay cả Nhật lẫn Pháp để làm chủ khu vực này. Sang năm 1943, Mỹ muốn đặt Đông Dương dưới “chế độ ủy trị” của ba nước Mỹ, Anh và Trung Hoa Dân Quốc (Quốc Dân Đảng), thực chất là đặt Đông Dương trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ.
Sau khi Thế chiến II kết thúc, Đức hoàn toàn thất bại, Nhật đầu hàng không điều kiện. Pháp trở thành nước thắng trận nhưng suy yếu nghiêm trọng và toàn diện cả về chính trị, kinh tế và quân sự.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công, khai sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa với dân tộc Việt Nam mà cả với phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến giải phóng thuộc địa và giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, đồng thời là một miếng đánh chiến lược vào chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.
Sự kiện lịch sử đó đã khiến Việt Nam trở thành đầu mối quân sự có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Và vì thế người Mỹ bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Việt Nam và Đông Dương.
Bằng nhiều chiến thuật và sách lược ngoại giao, Tổng thống Mỹ Truman đã hậu thuẫn cho quân đội chư hầu Trung Hoa Quốc Dân Đảng vào miền Bắc Việt Nam và hỗ trợ quân đội đồng minh Anh Quốc vào miền Nam Việt Nam, dưới danh nghĩa “giám sát sự đầu hàng của Nhật”.
Truman muốn vừa đảm bảo chắc chắn việc dọn sạch tàn quân Nhật, vừa muốn dùng quân Anh và quân Quốc Dân Đảng kiềm chế lực lượng Hồ Chí Minh ở Việt Nam, vừa thông qua hai đồng minh này khai thông mở đường cho Mỹ từng bước xâm nhập Đông Dương.
Hiệp nghị sơ bộ 1946 đã giúp Việt Nam đẩy được quân đội Quốc Dân Đảng trở về nước họ một cách khôn khéo. Pháp quay trở lại với cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, Mỹ từng bước thông đồng và giúp Pháp, đứng sau Pháp để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Bên cạnh mưu đồ về chính trị, Mỹ không quên quyền lợi kinh tế của mình ở khu vực này. Từ năm 1945 đến 1950, quan hệ buôn bán giữa Mỹ và chế độ thuộc địa Đông Dương được đẩy mạnh hơn trước một bước.
Trong thời gian 5 năm đó, Mỹ mua 10,1% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu ở Đông Dương. Riêng cao su lên đến 105.000 tấn, chiếm 98% giá trị hàng hóa Mỹ mua của Đông Dương. Về phía Mỹ, hàng hóa nhập vào Đông Dương có giảm hơn so với trước Thế chiến II: “Bông vải chiếm; 9,3% số lượng vải nhập. Sản phẩm dầu hỏa chiếm 7,1% phương tiện giao thông đường biển, đường sông và đường hàng không: 3,1%.
Tính toàn bộ, hàng hóa Mỹ chiếm 9,6% tổng giá tự hàng hóa nhập cảng của Đông Dương trong 5 năm từ 1945 đến 1950, mặc dù trong thời gian này, Pháp đẩy mạnh nhập cảng hàng hóa của chính quốc để phục vụ yêu cầu của chiến tranh.
Sau khi Thế Chiến II kết thúc, theo chỉ thị của Bộ ngoại giao Mỹ, lãnh sứ quán Mỹ ở Đông Dương rất quan tâm đến việc điều tra thu thập những tài liệu kinh tế về Đông Dương, đặc biệt là về Việt Nam. Điều được Mỹ quan tâm nhiều hơn cả là nguồn khoáng sản ở Bắc Bộ. Công ty Florida PHAST có tham vọng rất muốn mở chi nhánh ở Lào Cai. Về thiếc, đế quốc Mỹ đặc biệt chú ý đến mỏ thiếc có hàm lượng cao và trữ lượng lớn ở Vân Nam (Trung Quốc) kéo dài đến vịnh Bắc Bộ (Việt Nam).
Ngoài lãnh sứ quán Mỹ còn có nhiều cơ quan và phái đoàn Mỹ cũng nghiên cứu tình hình kinh tế, giao thông, hầm mỏ, và thương mại của Việt Nam. Chính phủ Mỹ cũng bắt đầu đặt cơ sở giao dịch buôn bán tại Hà Nội để buôn bán với các thương gia người Việt được thuận lợi.
Sức mạnh kinh tế trở thành bàn đạp nuôi dưỡng ý đồ của Mỹ về mặt chính trị và hiện thực hóa bằng chính sách quân sự.
Tình hình quốc tế trong thời gian 1950-1954 có nhiều chuyển biến lớn ảnh hưởng tác động trực tiếp đến cuộc xâm lược và can thiệp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Đông Dương.
Liên Xô sau khi giành được những thành tựu đáng kể trong kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1945-1950) đã chế tạo thành công vũ khí nguyên tử và bom khinh khí, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mỹ. Và như thế, Mỹ đã hoàn toàn thất bại trong chiến lược “răn đe” Liên Xô.
Bên cạnh đó, những thắng lợi của Trung Quốc với sự ra đời của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949) đánh dấu thất bại nặng nề đối với chiến lược toàn cầu phản cách mạng, chống báng và ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, làm cho cán cân so sánh lực lượng trên trường quốc tế nghiêng về phe chống đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp trên thế giới.
Mặt khác, cuộc Chiến tranh Triều Tiên của Mỹ trong mục tiêu cứu nguy Hàn Quốc ở Nam Triều Tiên và “Bắc tiến” xâm lược Bắc Triều Tiên của đế quốc Mỹ dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc cũng không thôn tính được Bắc Triều Tiên do bị quân đội Trung Quốc đẩy lui ra khỏi thủ đô Bình Nhưỡng và bị tổng tư lệnh Bành Đức Hoài đánh bật ra khỏi lãnh thổ Bắc Triều Tiên, đẩy Mỹ trở về vĩ tuyến 38 và lãnh thổ Nam Triều Tiên.
Tại Đông Dương, sau thất bại của chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947, quân đội Pháp tiếp tục bị thất bại trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1950 trên phòng tuyến biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn, đẩy thực dân Pháp lún sâu vào sa lầy và khủng hoảng toàn diện.
Để tiếp tục cuộc Chiến tranh Đông Dương, không còn con đường nào khác Pháp buộc phải chấp nhận sự giúp đỡ viện trợ của Mỹ. Lợi ích kinh tế chính trị quân sự của Mỹ ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng đến lúc này đã bộc lộ rất rõ.
Ẩn nấp sau lợi ích về sự chia phần với Pháp về kinh tế là một mưu đồ chính trị rộng lớn hơn. Bước sang giai đoạn này (1950 -1954), mưu biến khu vực thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ càng được bộc lộ rõ nét qua viện trợ của Mỹ cho Pháp.
Ngày 08/5/1950, Tổng thống Mỹ Truman quyết định viện trợ cho Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương. Theo Pentagon Papers (Hồ sơ Ngũ Giác Đài), tháng 12/1950, Mỹ chính thức ký với Pháp hiệp định viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương.
Qua mỗi năm sau đó, viện trợ Mỹ ngày một tăng lên nhanh chóng, dần trở thành nguồn cung cấp chính yếu cho cuộc chiến tranh tái chiếm Đông Dương. Theo tính toán của Pháp, viện trợ Mỹ đã chiếm gần 80% chi phí chiến tranh của Pháp. Trong tổng số 1,7 tỷ USD viện trợ Mỹ đó tuyệt đại bộ phận là vũ khí khí tài chiến tranh.
Tháng 9, 1952, Mỹ ký với ngụy quyền Bảo Đại “hiệp ước hợp tác kinh tế Việt-Mỹ”. Từ năm 1950 đến 1954, Mỹ đã viện trợ cho chính quyền Bảo Đại 23 triệu USD bằng hàng hóa và khoảng 36 triệu USD bằng tiền mặt, khoảng 15 triệu USD vũ khí. Tổng số các loại viện trợ này khoảng 75 triệu USD. Với khoản viện trợ khổng lồ theo thời giá khi đó, Mỹ tin tưởng rằng tất cả sẽ nằm trong vòng kiểm soát của họ.
Cũng trong khoảng thời gian này, Mỹ bắt đầu vơ vét nguyên liệu ở Việt Nam và Đông Dương. Có thể thấy rõ điều đó qua số liệu cao su xuất cảng sang Mỹ hàng năm: 1951 (13.398 tấn), 1952 (20.08 tấn), 1953 (34.98 tấn), 1954 (34.28 tấn).
Ngoài ra, Mỹ còn áp lực Pháp cho các tập đoàn tư bản Mỹ vào đầu tư ở Đông Dương. Tháng 6, 1950, ngoại trưởng Pháp tại hội nghị Washington đã ký một hiệp ước để Mỹ đầu tư vào khối Liên hiệp Pháp. Hiệp ước này mở đường cho tư bản tài phiệt Mỹ rộng đường xâm nhập Việt Nam và Đông Dương: Công ty Hàng không Liên Mỹ Đông Dương; công ty Hàng không Vận tải (Givilais transport) chiếm 10% cổ phần ngân hàng Đông Dương; công ty Marquet nắm mỏ chì, mỏ thiếc, công ty Morgan nắm điện thoại vv..
Người Pháp thừa hiểu rằng viện trợ Mỹ thấm đến đâu thì “bàn tay lông lá” của Mỹ cũng nhúng vào tới đó, quyền lợi của Pháp cũng bị đe dọa tới đó. Nhưng tình thế khó khăn buộc Pháp phải miễn cưỡng chấp nhận.
Quân đội Việt Nam thì ngày càng lớn mạnh. Chiến tranh kéo dài và ngày càng tổn thất lớn. Nền tài chính Pháp kiệt quệ. Mỹ lúc này là chỗ dựa duy nhất.
Tình cảnh của Pháp lúc này rất khốn quẫn. Trước mặt, quân Việt Nam càng đánh càng mạnh, càng dìm Pháp sa lầy sâu hơn trong những thất bại ngày càng lớn.
Tướng Henri Navarre, tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương thời kỳ 1953 -1954 trong tác phẩm “Đông Dương hấp hối” đã viết: “Điều nguy khốn nghiêm trọng nhất của viện trợ Mỹ là, về mặt chính trị, nó làm cho Mỹ nhúng tay ngày càng sâu vào các công việc của chúng ta. Nó làm cho ảnh hưởng của Mỹ thay thế dần ảnh hưởng của Pháp đối với các quốc gia liên kết. Do nhận viện trợ Mỹ, chúng ta đã làm vào tình huống đầy mâu thuẫn. Đó là tấn bi kịch.”
Có thể nói, trước Thế chiến II, thực dân Mỹ ít dòm ngó đến Đông Dương. Nhưng sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, đặc biệt việc Nhật xâm lược và đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau đó xâm lược một loạt các quốc gia Đông Nam Á, thì chính sách của Mỹ đối với Đông Dương, trong đó có Việt Nam, bắt đầu thay đổi.
Tháng 9, 1940, Nhật đột nhập vào Lạng Sơn và sau đó xâm nhập toàn Đông Dương. Sau này, giới sử học chủ lưu ở Mỹ vẫn coi đó là sự kiện đầu tiên thôi thúc sự quan tâm của Mỹ đối với Đông Dương.
Mùa xuân năm 1941, Cục Hải quân Mỹ gửi một báo cáo đặc biệt về Đông Dương lên Tổng thống Mỹ Roosevelt. Đây có lẽ là tài liệu đầu tiên của Mỹ phản ánh tương đối toàn diện tình hình các mặt về tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương đối với Mỹ. Từ đó, chính sách của Mỹ đối với khu vực này có nhiều thay đổi. Nhà sử học Mỹ Edward Drachman nhận xét: “Từ cuối năm 1940, Mỹ bắt đầu nhận thấy ý nghĩa chiến lược quan trọng của Việt Nam. Và đến đầu năm 1941, trên thực tế, Mỹ đã xem Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược lớn đến mức là một cuộc xung đột về quyền lợi với Nhật ở đó đã trở thành nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh giữa hai nước.”
Từ tháng 3, 1941, Đông Dương trở thành chủ đề chính trong nhiều cuộc nói chuyện giữa Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Cordell Hull và đại sứ Nhật Bản tại Mỹ Nomura. Việc quân đội Nhật vào Đông Dương và sự thỏa hiệp của Pháp đã làm cho Tổng thống Mỹ Roosevelt lo ngại vì điều đó đe dọa trực tiếp đến lợi ích Mỹ và tạo cho Nhật Bản một căn cứ để hoạt động rộng khắp Đông Nam Á.
Ngày 24/7/1941, Roosevelt chỉ thị cho Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ lúc đó là Sumner Welles thể hiện quan điểm của Mỹ với đại sứ Nhật Nomura: “Phải làm cho rõ sự thực là Nhật chiếm đóng Đông Dương có nghĩa là một bước tiến quan trọng để kiểm soát vùng biển phía Nam, trong đó có luồng thương mại quan trọng nhất của Mỹ về các sản phẩm cao su, thiếc, và các sản phẩm khác”.
Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc Thế chiến II) bắt đầu, là một chính khách mưu lược và thực dụng, Roosevelt sớm hiểu rằng chiến tranh thế giới sẽ làm bùng phát lên một cuộc nổi dậy quy mô toàn thế giới phản kháng thực dân phương Tây, trong đó có Đông Dương. Các nước đế quốc nếu muốn duy trì quyền lợi của mình thì không thể áp đặt một chế độ thực dân công khai theo kiểu cổ điển như thời kỳ trước chiến tranh được mà phải có sự thay đổi từ cũ sang mới, điều chỉnh “linh động” cho phù hợp với tình hình.
Chế độ quản lý của Roosevelt trên thực tế chính là sự áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới (thực dân trá hình, thực dân linh hoạt) của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương.
Tổng thống mới Truman, với chính sách diều hâu và trong tham vọng được chia phần với Pháp, đã từng bước ủng hộ Pháp quay lại chiếm đóng Đông Dương. Trong chuyến thăm nước Mỹ từ ngày 22 đến 25/8/1945, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã nhận được sự xúi giục và hứa hẹn của Truman: “Về Đông Dương, tôi xác nhận là Chính phủ Mỹ sẽ không làm gì để cản trở sự trở lại của nước Pháp”.
Ngày 29/8/1945, bà Tống Mỹ Linh, vợ thống chế Trung Hoa Dân Quốc, ủy viên trưởng Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch thăm Mỹ, khi gặp Truman đã hỏi về chính sách của Mỹ đối với Đông Dương sau khi nhắc lại ý định của Roosevelt về vấn đề này và nhận được câu trả lời dứt khoát của Tổng thống Mỹ: “Không có vấn đề quản thác quốc tế cho Đông Dương nữa”. Mỹ đã mượn Tống Mỹ Linh để chuyển lời và tín hiệu “đèn xanh” đến cho Pháp: Mỹ đã hoàn toàn ủng hộ 100% đối với âm mưu của Pháp chiếm lại Đông Dương.
Với sự thành công của Cách mạng tháng Tám giành chính quyền từ tay Nhật trên toàn quốc Việt Nam năm 1945, sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã làm đảo lộn mọi tính toán, sắp đặt của các thế lực đế quốc, trong cuộc đua tranh nhau Đông Dương.
Thực tế đó đã buộc các thế lực đế quốc phải nhanh chóng thỏa hiệp với nhau để có thể đảo ngược tình thế trước mắt, cùng thực hiện mưu toan bóp chết một quốc gia cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiểu và thấy rất rõ bản chất diều hâu, hiếu chiến, và những ý đồ của Mỹ và các thế lực đế quốc khác đối với Đông Dương. Ngay sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Mỹ – Tưởng và Anh – Pháp, nhằm ngăn chặn âm mưu quay lại xâm lược Đông Dương của Pháp, vô hiệu hóa những toan tính mới của Mỹ, bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được.
Để tránh và hạn chế nguy cơ chiến tranh do Pháp gây ra, thấy rõ vai trò, ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới, Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần liên hệ với các cơ quan đại diện của Mỹ, kêu gọi Mỹ sử dụng ảnh hưởng của họ đối với Pháp. Nhưng từ phía Mỹ đã không đáp ứng. Do thấy rõ được thái độ hai mặt của Mỹ, nên Việt Nam vẫn luôn chuẩn bị những kế sách để đối phó. Cho đến thời điểm đó, phía Mỹ vẫn không có một sự công nhận chính thức nào đối với nước Việt Nam mới, mà trái lại Mỹ đã tích cực hoạt động theo hướng tạo ra một chính quyền bù nhìn để thay Mỹ chống Việt Nam.
Cuộc Thế chiến II kết thúc đã dẫn đến những biến chuyển lớn trong tương quan so sánh lực lượng trên thế giới. Mỹ trở thành cường quốc số một thế giới, đồng thời sự lớn mạnh của Liên Xô và sự ra đời của một loạt các quốc gia XHCN, sự tăng cường ảnh hưởng của các đảng Cộng sản trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc, Đông Dương, Triều Tiên…. đã làm Mỹ lo ngại.
Đến năm 1947, theo kế hoạch Marshall, Mỹ viện trợ cho Pháp 3 tỷ USD với ý muốn giúp Pháp giải quyết nhanh cuộc Chiến tranh Đông Dương, vì sợ tác động dây chuyền của Việt Nam sẽ thúc đẩy các phong trào đòi độc lập ở cả khu vực Đông Nam Á không có lợi cho Mỹ và phương Tây.
Cuối những năm 1940, Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp. Từ cuối năm 1949, Mỹ chính thức cam kết can thiệp vào cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương bằng một loạt các bước đi cụ thể. Lợi dụng sự suy yếu của Pháp, Mỹ đi đến chỗ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam và Đông Dương (1950-1954), rồi tiến dần đến gạt bỏ và thay thế Pháp ở miền Nam Việt Nam (sau 1954).
Từ đó, Mỹ đã từng bước lao vào “một cuộc chiến tranh làm mất lòng người và gây chia rẽ nhất trong một thế kỷ của lịch sử Mỹ” (19).
Ngày 20/12/1960, Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Tây Ninh tuyên bố thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội đã cử ra Ủy ban Trung ương và thông qua Tuyên ngôn, chương trình hành động 10 điểm, với nội dung cơ bản là: Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ; thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ; thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.
Để nắm độc quyền đầu tư, ngay từ năm 1961 Mỹ đã yêu cầu Ngô Đình Diệm ký bản cam kết ưu đãi đầu tư của Mỹ, gọi là “hiệp ước thân hữu và liên lạc kinh tế Việt-Mỹ”. Trong hiệp ước này, Diệm bảo đảm cho đầu tư của Mỹ được thuận lợi trong mọi ngành kinh tế, về mọi mặt trong việc mua đất đai, nguyên liệu, sử dụng các phương tiện công ích, thuê nhân công, chuyển lợi nhuận hàng năm về nước Mỹ, hiệp đồng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, không được phép quốc hữu hóa trong một thời gian dài tùy theo từng ngành, thời gian đảm bảo cao nhất là 99 năm.
Như vậy, tuy Mỹ chưa thực hiện, hoặc mới thực hiện đầu tư nhỏ giọt, song đó chính là một trong những mục tiêu mà Mỹ đã nhắm vào và đã chuẩn bị từ lâu.
Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Tham vọng này không chỉ nhằm vào viễn cảnh. Nó đã được thực hiện từ lâu. Ngay từ trước Thế chiến II, tỷ lệ hàng hóa Mỹ trong tổng ngạch nhập khẩu của Đông Dương đã đạt tới mức cao: Trong thời kỳ 1930-1939: bông 27%, sản phẩm dầu hỏa 19,1%, máy móc 17,5%, ô tô và phụ tùng 13,4%. Trong thời kỳ 1946-1950; bông, 9,3%, sản phẩm dầu hỏa 7,7%, kim khí 4,9%, máy móc 19,3%, ô tô và phụ tùng 10%, sợi và hàng dệt 13,6%, thuốc lá 7,1%.
Những thành công của kế hoạch X, nghi binh Khe Sanh, và cuộc tổng công kích chiến lược và tổng nổi dậy ở “thủ phủ” Sài Gòn và vùng tạm chiếm miền Nam năm 1968, trong đó có Tòa đại sứ Mỹ (lãnh thổ nước Mỹ theo pháp lý), đã gây bất ngờ và tổn hại lớn cho Mỹ – Sài Gòn, gây kinh ngạc cho dư luận trong và ngoài nước Mỹ, truyền thông chủ lưu Mỹ và quốc tế, đã trực tiếp đưa người Mỹ lên bàn đàm phán ở hội nghị Paris, Pháp.
Ngày 5/8/1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (lúc này thay thế Mặt trận Giải phóng) ra Tuyên bố 10 điểm, với nội dung chính là 10 giải pháp chính cho vấn đề Việt Nam:
1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh, dân tộc, dân chủ.
2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi, tiến bộ.
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cải thiện dân sinh.
4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.
5. Xây dựng nền văn hoá, giáo dục dân tộc dân chủ.
6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.
8. Thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập.
9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.
10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hoà bình thế giới.
Cái logic bi hài trong cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Mỹ là: Vì tham vọng của Mỹ bị ngăn chặn, cho nên sức mạnh và uy danh của Mỹ bị đặt trước một sự thách thức.
Như vậy, khi việc khai thác của cải càng gặp khó khăn, thì lại nảy sinh một động cơ khác, một nỗ lực phải giữ lấy “uy danh” nước lớn của Mỹ cho bằng được, không phải chỉ có ở Việt Nam mà còn thông qua Việt Nam để giữ lấy uy danh của Mỹ trên trường quốc tế. Động cơ này bản thân nó đã rất lớn.
Trong quá trình xâm lược, trong quá trình thất bại liên tục, động cơ đó càng ngày lớn hơn lên và càng có sức lôi kéo mạnh mẽ đối với ý chí của Mỹ. Sức lôi kéo đó dần dần trở nên mạnh hơn sức lôi kéo của những vựa lúa, những rừng cao su, những bể dầu ở Nam Bộ.
Nếu chỉ vì những món lợi trực tiếp, thì những khó khăn và thất bại có thể làm chính giới Mỹ phải tính toán và dừng lại cuộc phiêu lưu quân sự ở Việt Nam. Nhưng nếu là để cứu vãn uy danh của một cường quốc bá chủ thế giới, thì càng thất bại, cái động cơ đó càng mạnh hơn, càng lôi kéo Mỹ sa lầy sâu vào “bãi lầy Việt Nam”, “vũng bùn Việt Nam” lâu hơn.
Chỉ đến khi nào dùng hết sức mạnh có thể dùng đến, thi hành tất cả những thủ đoạn có thể thi hành và không còn cách nào cứu vãn nổi thất bại quân sự nữa, thì Mỹ mới đành rút quân đội chủ lực về nước (để lại 20 ngàn sĩ quan cố vấn Mỹ với danh xưng mới là “tùy viên quân sự”).
Như vậy, toàn cảnh thực tế lịch sử ở trên đã cho thấy rõ, ngay từ giữa thế kỷ 19 Mỹ đã chú ý đến Việt Nam. Sau đó, với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và Đông Dương đã dần trở thành đối tượng tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài.
Thời gian trước Thế chiến II, Mỹ chưa có điều kiện chú ý nhiều đến tình hình Đông Dương. Nhưng bước vào chiến tranh, chính sách của Mỹ đối với khu vực này bắt đầu có sự thay đổi. Với việc Nhật dòm ngó và xâm lược Đông Dương, đặc biệt khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Mỹ đã coi Đông Dương là một địa bàn quan trọng để ngăn chặn và tranh giành với Nhật.
Cũng từ đó, chính phủ Mỹ, chính thức từ thời Tổng thống Roosevelt trong những năm đầu của thập kỷ 40 bắt đầu chú ý ngày càng nhiều đến Việt Nam và Đông Dương. Chính Roosevelt đã đưa ý định thiết lập chế độ “quản thác quốc tế” hứa hẹn, hoãn binh câu giờ bằng miếng bánh vẽ “độc lập” nhằm bám víu thuộc địa cũ, níu kéo thời gian để thiết kế sắp đặt và dọn đường cho chủ nghĩa thực dân trá hình của Mỹ, tạo điều kiện để Mỹ có thể nắm được càng nhiều cựu thuộc địa càng tốt, trong đó có Đông Dương.
Mặc dù chủ trương đặt Đông Dương dưới một chế độ quản thác quốc tế, nhưng chính phủ Mỹ chưa bao giờ quan tâm tới việc ủng hộ nhân dân Đông Dương giành độc lập, tự chủ. Thực chất Mỹ chỉ muốn qua hình thức “quản thác quốc tế” để gạt bỏ sức mạnh quyền lực của Pháp ở Đông Dương, từ đó tạo điều kiện gây ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này khi chưa có điều kiện can thiệp trực tiếp.
Thực tế lịch sử đã cho thấy, mãi tới khi Việt Nam đã có những hoạt động hỗ trợ cụ thể cho phe Đồng minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt vấn đề hợp tác đánh Nhật, thì phía Mỹ cũng chỉ có những hành động đáp lại rất hạn chế. Cho đến trước khi chết, Tổng thống Roosevelt vẫn không có một quyết định nào về vấn đề quản thác quốc tế đối với Đông Dương.
Tuy nhiên xét tình hình thực tiễn lúc đó, chính sách dân túy và cơ hội chính trị này của Roosevelt cũng ảnh hưởng tiêu cực đến Pháp, có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt được và tranh thủ lợi thế đó, nhằm tập trung vào kẻ thù chính của cách mạng lúc đó là phát xít Nhật và thực dân Pháp.
Thế chiến II kết thúc, cách mạng Việt Nam thành công, Tổng thống mới của Mỹ là Truman và các nhà chiến lược Mỹ đã có sự thay đổi sách lược đối với Việt Nam và Đông Dương. Tuy chưa có điều kiện để can dự nhiều đến Đông Dương, nhưng Mỹ đã dần ủng hộ Pháp trở lại xâm lược Đông Dương.
Từ đó bắt đầu quá trình can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp và tiến dần tới chỗ thay thế Pháp, độc chiếm miền Nam Việt Nam, biến nơi đây thành thuộc địa trá hình và căn cứ quân sự của Mỹ.
Cũng từ đó Mỹ bắt đầu một quá trình “lao theo vết xe đổ của Pháp”, và rồi cũng không tránh khỏi thất bại như Pháp khi những người lính thủy đánh bộ và tùy viên quân sự cuối cùng của Mỹ lên trực thăng rời khỏi lãnh thổ Việt Nam sáng ngày 30/4/1975 trong chiến dịch Frequent Wind, chiến dịch quân sự cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Phạm Xanh: Đông Dương “Lọt vào mắt xanh” của Đế quốc Mỹ từ bao giờ, tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 1-1988, tr.26.
(2) Tạp chí Những người bạn của cố đô Huế số 3-1937 (bản tiếng Pháp)
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, XB lần thứ 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà NộI, 1995, tr.416.
(4) Tạp chí Lịch sử quân sự, 1-1988 sđd, tr.27.
(5) Lê Kim Hải: Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt – Pháp thời kỳ 1945- 1946, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr.8.
(6) Peter A. Paul: Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon. NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1988, tr. 13-14.
(7) Drachman: Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam 1940-1945. Viện Thông tin khoa học xã hội lược thuật.
(8) Viện Mác – Lênin: Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt Pháp, NXB Thông tin lý luận Hà Nội, 1986, tr.39.
(9) Cordel Huld: Memoirs (New York, Macminllan, 1948)
(10)Trần Hữu Đính, Lên Trung Dũng: Quan hệ Việt Mỹ trong cách mạng tháng Tám, NXB Khoa học xã hội, Hà NộI, 1997.
(11)Drachman… Sđd
(12)Xem Foreign Relation of the United States. Volume V.
(13)Peter A. Paul… Sđd
(14)Trần Trọng Trung: Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống, Tập 1, NXB Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1986, tr. 57.
(15)Jaeyes Dacot: NgườI Mỹ ở Việt Nam, tạp chí “Historia” (Pháp) Số 2-1990, tài liệu lưu trữ ở Viện Lịch sử quân sự.
(16)Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975. Tập 1. NXB Chính trị quốc gia, tr 85.
(17)Lịch sử diễn biến tình hình địch và ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1945-1975), Viện Khoa học quân sự, biên soạn, 1977, tr4.
(18)Jaeayes Dacot: … Sđd
(19)Peter A. Paul: … Sđd, tr7.
(20) Hai Mươi Mốt Năm Viện Trợ Mỹ Ở Việt Nam. Đặng Phong.
(21) Henry Lauque, Activités économiqués americanes. Cahiers Internationaux, No-5-1942.
(22) Pentagon Papers (Hồ sơ Ngũ Giác Đài). Daniel Ellsberg. The New York Times. 1971.
(23) Edward Drachman. United States Policy Towards Vietnam 1940-1945. New Jersey, Associated University Press 1970. tr62.
(24) Tuyên ngôn, chương trình hành động 10 điểm. Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam. Tây Ninh. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. 20/12/1960.
(25) Tuyên bố 10 điểm giải pháp. Hội nghị Paris. Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền nam Việt Nam. 5/8/1969.
(26) Tổ chức, hoạt động của MTDTGPMNVN và CPCMLTMNVN qua tài liệu lưu trữ (1960 – 1975). Vũ Văn Tâm, Phó Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.
Theo TS. Nguyễn Trọng Hậu (Sự kiện & Nhân chứng, QĐND), PGS, TS. Hà Minh Hồng (Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. HCM, Hội Khoa học Lịch sử TP. HCM), và PGS, TS. Phạm Thu Nga (Blog Khoa quân sử)
Chia sẻ bài này đến mọi người: