Vai trò chính của Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam

Đầu năm 1930, Đảng Cộng Sản Việt Nam thành lập ở Hồng Kông (Trung Quốc), đánh dấu một bước ngoặt lớn trong phong trào giải phóng giai cấp và giải phóng thuộc địa ở Việt Nam.

Cuối năm 1930, theo đề nghị của Quốc Tế Cộng Sản (Liên Xô) nhằm chống chủ nghĩa dân tộc, Đảng Cộng Sản Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng Sản Đông Dương với ý nghĩa là một Đảng Cộng sản chung cho cả ba nước Đông Dương là Việt Nam, Campuchia và Lào cùng chống thực dân Pháp xâm lược.

Kể từ khi Việt Nam tuyên bố độc lập năm 1945 và đứng lên kháng chiến chống Pháp năm 1946, tuy đã bước vào giai đoạn cầm cự, nhưng vẫn chưa có một nước nào trên thế giới thừa nhận nền độc lập của Việt Nam.

Với ý định này, Trung Quốc đề nghị với chính phủ Liên Xô và đề nghị để Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Liên Xô gặp Stalin để trình bày trực tiếp và đã thuyết phục thành công.

Sau khi nước Trung Quốc mới được thành lập hơn ba tháng, lãnh đạo Trung Quốc Lưu Thiếu Kỳ nói:

“Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã quyết định thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sẽ bàn với Liên Xô cũng thừa nhận, để Việt Nam có một địa vị mạnh trên trường quốc tế. Hiện nay, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã được Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Triều Tiên, Mông Cổ thừa nhận. Nước Anh cũng thừa nhận. Nước Pháp cũng đang chuẩn bị thừa nhận. Bây giờ chúng tôi thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì chắc chắn Pháp sẽ hoãn lại việc thừa nhận chúng tôi, nhưng chúng tôi không sợ. Chúng tôi mạnh lên, Pháp sẽ phải thừa nhận. Bây giờ vấn đề chính là phải tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam mau tới thắng lợi.”

Ngày 18/1/1950, Trung Quốc chính thức tuyên bố công nhận và thiết lập ngoại giao với Việt Nam.

Sau đó, ngày 30/1/1950, Liên Xô cũng tuyên bố công nhận, và tiếp theo chính phủ các nước Đông Âu và Triều Tiên, Mông Cổ ở châu Á liên tiếp công nhận.

Việc Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa mở ra tiền lệ cho phe xã hội chủ nghĩa công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã giúp Việt Nam có một địa vị vững chắc trên trường quốc tế. Đó là một sự kiện quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của Việt Nam.

Đi đôi với việc giúp đỡ Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc qua viện trợ và đưa vào các đoàn công nhân giúp Việt Nam xây dựng nhiều công xưởng, nhà máy, Trung Quốc còn tỏ thái độ ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam với nhiều phát ngôn cứng rắn.

Ở Trung Quốc, báo chí truyền thông thường xuyên đưa tin về tình hình chiến sự ở miền Nam Việt Nam, xuất bản nhiều sách và tranh ảnh, sáng tác nhiều tác phẩm văn nghệ như kịch múa “Lửa hận rừng dừa” nói về cuộc Đồng Khởi của “nhân dân Nam Việt anh hùng”, nhằm tranh thủ sự đồng cảm và ủng hộ của người dân Trung Quốc cho cuộc kháng chiến ở miền nam Việt Nam.

Trong cuộc chiến 12 ngày đêm chống B52 Mỹ vào năm 1964, số người xuống đường biểu tình, diễu hành ủng hộ Việt Nam lên đến hàng trăm triệu ở các tỉnh của Trung Quốc.

Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đích thân tham dự cuộc mít tinh của hơn một triệu người ở Bắc Kinh. Chu Ân Lai thường căn dặn những người phụ trách công tác viện trợ phải “luôn luôn nghĩ như nhân dân Việt Nam nghĩ, và làm gấp những việc nhân dân Việt Nam cần gầp”.

Những khẩu hiệu thường thấy ở nhiều đô thị và nông thôn Trung Quốc thời bấy giờ là: “Bớt ăn, bớt mặc, bớt dùng, ưu tiên chi viện Việt Nam”, “Bớt than khổ, bớt nói nhiều, làm nghĩa vụ quốc tế một cách thầm lặng”.

Tuy nhiên, một bước ngoặt quan trọng xảy ra vào năm 1969 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Hồ Chí Minh vẫn luôn là mối liên kết chính yếu giữa những người cộng sản Việt Nam và Trung Quốc cả về mặt văn hóa lẫn lịch sử. Ông vốn là một nhà cách mạng cùng thế hệ với Mao và Chu, có mối quan hệ cá nhân từ những ngày đầu của Đảng cộng sản Đông Dương và Đảng cộng sản Trung Quốc, và có quan hệ cá nhân thân thiết với Chu Ân Lai từ những ngày họ cùng hoạt động ở Paris, Pháp sau Chiến tranh Thế Giới lần thứ nhất.

Ông nói được nhiều thứ tiếng địa phương ở Trung Quốc, mức độ uy tín cùng quan hệ cá nhân của ông với các nhân vật lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc đã tạo nên sự ôn hòa và dễ chịu cho quan hệ Việt – Trung.

Sau khi ông qua đời, nhiều cơ quan báo chí đoán rằng khả năng người kế nhiệm là Lê Duẩn sẽ liên minh chặt chẽ hơn nữa với Liên Xô sẽ tăng lên.

Tuy nhiên, sau lễ tang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiệp định viện trợ kinh tế và quân sự tài khóa năm 1970, vốn đang trì hoãn từ tháng tư, đã được Việt Nam và Trung Quốc ký kết với những điều kiện “hào phóng” đến không ngờ. Khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh toàn lực giữa Trung Quốc và Liên Xô giảm đi sau cuộc trao đổi giữa Chu Ân Lai và Kosygin tại sân bay Bắc Kinh đã cho phép lãnh đạo Trung Quốc nhìn xa hơn các yêu cầu an ninh quốc gia trước mắt để hướng tới một nền an ninh lâu dài, và điều này đòi hỏi phải duy trì quan hệ chặt chẽ với Việt Nam.

Sau một loạt các cuộc hội đàm giữa lãnh đạo hai nước vào cuối tháng 10, báo chí chính thống của cả hai bên đều đăng những bài viết tích cực thể hiện sự nồng nhiệt về tình hữu nghị lâu đời giữa hai đất nước.

Vấn đề Việt Nam một lần nữa có tầm quan trọng trong chương trình nghị sự của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, và vào cuối tháng 9 đích thân Mao Trạch Đông, trong một cuộc gặp với Phạm Văn Đồng, đã đề nghị thành lập các “Nhóm chỉ đạo hiệp trợ Việt Nam” ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam và Hồ Nam để hỗ trợ Việt Nam, khẳng định Trung Quốc là hậu phương lớn vững vàng của Việt Nam, nâng cao hiệu quả giúp đỡ của Trung Quốc cho Việt Nam.

Giữa tháng 3 và tháng 10, “tứ trụ nguyên soái” Trần Nghị, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn và Diệp Kiếm Anh đệ trình lên Bộ Chính trị Trung Quốc 4 báo cáo, với 3 kết luận chủ chốt.

Một trong những kết luận được công bố sau này là: do những mâu thuẫn giữa hai bên, chiến tranh rất có khả năng xảy ra giữa Hoa Kỳ và Liên Xô hơn là giữa một trong hai, hoặc cả hai nước đó với Trung Quốc. Họ cũng kết luận rằng Liên Xô là mối đe dọa lớn hơn đối với Trung Quốc.

Về phía Việt Nam, phân tích này có ý nghĩa lâu dài rất to lớn: trong khi Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ cuộc đấu tranh của những người cộng sản Việt Nam đánh đuổi người Mỹ ra khỏi miền nam Việt Nam, phương thức mà người Mỹ rời khỏi giờ đây đối với Bắc Kinh ít quan trọng hơn rất nhiều. Trước đây Mao Trạch Đông tìm cách “hạ nhục” Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, và phản đối mạnh mẽ bất cứ chính sách nào không làm được điều đó, nhưng giờ thì kết luận tất yếu của đường lối mới được lựa chọn tại Bắc Kinh là việc “không hạ nhục” Mỹ có lẽ lại là lựa chọn tốt hơn.

Những tương đồng về ý thức hệ văn hóa, chính trị, lý luận, tư tưởng và tình cảm gần nhau lâu đời đã thúc đẩy lãnh đạo Trung Quốc tiếp tục giúp Việt Nam giành chiến thắng. Theo Garver, “Sino- Vietnamese Conflict”, chính Kissinger đã ghi nhận:

“Tình cảm lớn dành cho người anh em Bắc Việt đang chiến đấu đến từ phía Trung Quốc nhiều hơn là từ phía Liên Xô.

Sự lãnh đạo Trung Quốc của Mao, Chu và các cộng sự khác, là sự lãnh đạo của một thế hệ cách mạng, mà cuộc đấu tranh của chính họ gắn liền với cuộc đấu tranh của Việt Nam đã kéo dài suốt 50 năm qua.

Có lẽ quan trọng hơn, người Trung Quốc vẫn coi Việt Nam là một phần trong “hệ văn hóa” của Trung Quốc, và do vậy phải có trách nhiệm với người “anh em” và cuộc chiến tranh của họ. Những di sản lịch sử mà mối quan hệ giữa hai nước để lại là những vấn đề thực sự đã làm cho một nước Trung Quốc mới tăng cường giúp đỡ cho chiến thắng của Việt Nam, điều làm phát sinh bản chất mâu thuẫn trong chính sách của Trung Quốc.”

(Tổng hợp)

Chiến tranh Việt Nam và chiến tranh biên giới Tây Nam: Những sự đánh đồng phi lý

Nhiều năm nay những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Campuchia và những người Mỹ cực hữu, những người Việt chống Cộng, đều đánh đồng cuộc chiến tranh Mỹ tiến hành ở Việt Nam với cuộc chiến tranh do Việt Nam tiến hành ở Campuchia. Họ tuyên truyền ngụy biện rằng “nếu Mỹ xâm lược Việt Nam thì Việt Nam cũng xâm lược Campuchia”.

Mục đích của phe chủ nghĩa sô-vanh (chauvinism) ở Campuchia là nhằm xách động quan hệ VN – CPC, đánh đồng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ nhằm thuyết phục cho người ta tin rằng VN đã xâm lược CPC.

Trong khi đó, mục đích của bộ phận người Mỹ và người Việt cực đoan, đánh đồng cuộc chiến tranh phản công biên giới Tây Nam hòng thuyết phục người khác tin rằng Mỹ không xâm lược Việt Nam.

Trong số nhiều ngụy biện về lịch sử thì phải nói rằng trường hợp này là một trong những ngụy biện của những người có trí tưởng tượng kỳ quặc nhất, bởi lẽ đây là hai cuộc chiến hoàn toàn khác nhau về bản chất, tính chất, từ mục tiêu chiến tranh đến diễn biến thực tế của cuộc chiến. Đối với những người bình thường thì trong đầu mỗi khi hiện lên ý nghĩ về hai cuộc chiến này sẽ không có bất kỳ sự liên tưởng nào đến nhau.

Trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam chống Pháp Mỹ, Mỹ đã trợ giúp Pháp xâm lược Việt Nam, sau đó thay thế Pháp làm chủ và kiểm soát miền Nam Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa trá hình và căn cứ quân sự chiến lược của Mỹ, hình thành một địa bàn chiến lược của Mỹ cho mục đích chống Trung Quốc và chống chủ nghĩa xã hội nói chung.

Đích nhắm của Mỹ ở Việt Nam là lực lượng cách mạng giải phóng đất nước, lực lượng cứu nước giành độc lập từ cuộc cách mạng Tháng Tám đến cuộc kháng chiến chống Pháp.

Khmer Đỏ đã xâm lược biên giới Việt Nam, đốt phá thôn bản và nhà dân, thảm sát người dân giống như quân đội Mỹ – ngụy đã làm ở Việt Nam trước đó. Họ đã liên tục gây ra những cuộc xung đột ở biên giới Việt Nam – Campuchia trong năm 1977 và 1978. Những cuộc xâm lược đã bắt đầu ngay sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đã đột kích đảo Phú Quốc; 6 ngày sau, quân Khmer Đỏ xâm lược và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu.

Đáp trả hành vi xâm lược của Khmer Đỏ, quân Việt Nam đã phản công và nhanh chóng giải phóng các nơi này.

Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ thì Khmer Đỏ còn tiến hành hai cuộc xâm lược quy mô vào Việt Nam.

Cuộc xâm lược lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chủ lực Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và thảm sát dân thường.

Cuộc xâm lược thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 cùng năm. Lần này, 4 sư đoàn Khmer Đỏ xâm lược nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.

Ngày 31 tháng 12 năm 1977, 6 sư đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam phản công vào đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, giải cứu những nhà lãnh đạo quan trọng của Campuchia, trong đó có ông Hun Sen. Đây là một cuộc đánh trả lớn nhằm cảnh cáo, răn đe Khmer Đỏ.

Nhằm bảo vệ hòa bình và tránh một cuộc chiến tranh leo thang, Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot bác bỏ và tiếp tục cực đoan chống Việt Nam.

Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Khmer Đỏ họp bàn chủ trương chống Việt Nam triệt để, toàn diện, quyết định thành lập 15 sư đoàn. Pol Pot ra Nghị quyết: “Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.

Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục xâm lược Việt Nam, có nơi vào tới 15-20 km. Trong các đợt xâm lược đó, Khmer Đỏ đã gây ra nhiều cuộc thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Điều này khiến cho Khmer Đỏ lộ rõ bản chất phát xít vô nhân đạo, phi nhân tính.

Với một chính sách phân biệt chủng tộc, bài Việt, kỳ thị và tẩy chay người Việt, và đại diệt chủng, những cái gọi là “nghị quyết”, “chính sách”, não trạng, nhận thức, cách nghĩ, cách làm, hành động của họ rất quái đản và đầy tính chất bệnh hoạn.

Ngày 13 tháng 12 năm 1978, Khmer Đỏ huy động 10 trong 19 sư đoàn tổng tấn công, xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi, 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến thuộc tỉnh Kiên Giang.

Quân đội Việt Nam đã phải chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời làm tiêu hao sinh lực địch. Các hướng tiến binh của quân xâm lược bị chặn đứng và không thể phát triển.

Như vậy, Pol Pot đã xâm lược lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc trong những năm 1975-1978, gây nhiều tội ác chiến tranh diệt chủng đối với Việt kiều và người dân Khmer ở Campuchia, còn ở những vùng tạm chiếm đóng trong lãnh thổ Việt Nam, Khmer Đỏ đã thực hiện chính sách diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer ở chính nước họ.

Trong xã hội Campuchia dưới ách cai trị tàn bạo nghịch thường của Pol Pot và Khmer Đỏ, họ chủ trương xây dựng một xã hội không trường học, không tiền bạc, không chợ búa, người đẹp phải lấy người xấu trong những cuộc hôn nhân sắp đặt, cưỡng bách. Họ cho rằng đó là vì sự “bình đẳng”, “cân bằng sinh học” trong xã hội.

Trẻ em Campuchia thì bị đào tạo thành những cỗ máy giết người, trẻ em 5 tuổi đã được luyện hành hạ thú vật, gia súc, và con người, lớn lên một chút thì được luyện giết người, luyện cho các em quen dần với cảm giác giết chóc, tra tấn, bắn giết, phá hoại, hủy diệt, cảm giác “say máu”.

Trí thức thì trở thành đối tượng đều tiêu diệt tận gốc rễ, và tiêu chí để nhận biết ai có phải là “trí thức” hay không đó là sự đeo kính, bất kỳ ai đeo mắt kính thì đều là “trí thức” và bị hành quyết.

Một tiêu chí khác nữa là xem bàn tay, dù ai đó không bị cận thị, không đeo kính, nhưng nếu bàn tay mịn màng, sạch sẽ, đẹp đẽ, không thô kệch, không dơ dáy, không có dấu hiệu của việc lao động tay chân cơ bắp thì sẽ bị coi là “lười lao động”, “biếng nhác”, “con nhà giàu”, “trí thức” v.v. và nhẹ thì bị chặt ngón tay, vừa thì bị chặt nhiều ngón tay, chặt bàn tay, cánh tay, nặng thì bị giết.

Pol Pot cai trị một cách quá khích, cuồng tín và man rợ như một tù trưởng của bộ lạc ăn thịt người thời đồ đá, giết sạch bất kỳ ai dám lên tiếng phản đối, vu cho là “theo Việt Nam”, “kẻ phản bội” v.v. Họ triệt hạ, thanh trừng nội bộ bằng nhiều hình thức khác nhau, bao gồm hành quyết hàng loạt.

Chính quyền cách mạng ở Việt Nam là một thái cực hoàn toàn trái ngược. Một bên là lực lượng giải phóng dân tộc, một bên là lực lượng diệt chủng dân tộc.

Như vậy, chiến tranh phản công biên giới Tây Nam là một sự đánh trả tự vệ để tận diệt bọn xâm lược, là một cuộc chiến tranh chống xâm lược và dứt điểm quân giặc xâm lược. Nếu không dứt điểm được giặc thì sau khi hồi phục, quân xâm lược sẽ trở lại tiếp tục xâm lược, và chiến tranh sẽ tiếp diễn không có hồi kết.

Mục đích chiến tranh không phải để xâm lược Campuchia, mà để chống quân xâm lược Khmer Đỏ, đồng thời tiện thể giải phóng Campuchia và kết quả đã cứu nguy người dân Campuchia khỏi sự diệt chủng của Khmer Đỏ, giúp hồi sinh dân tộc Khmer, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế.

Nếu hành động triển khai quân đội cho một chiến dịch chiến tranh ở ngoài nước đều mặc định tự động là “xâm lược” thì lịch sử thế giới sẽ phải viết lại nhiều cuộc chiến tranh giúp bạn hoặc phản công tự vệ, thay đổi ý nghĩa thành “chiến tranh xâm lược” cho tất cả.

Ví dụ như nhà Thanh đưa quân đội viễn chinh giúp đỡ lực lượng chủ chiến triều Nguyễn và nghĩa quân Yên Thế chống Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp – Thanh ở Bắc Việt và Hoa Nam. Hay như Trung Quốc đem quân đội vào cứu Bắc Triều Tiên, chống lại lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ chỉ huy.

Hay như quân đội Liên Xô phản công vào Berlin để dứt điểm quân xâm lược, lật đổ Đức Quốc Xã, góp phần giải phóng nhân loại khỏi thảm họa phát xít như quân đội Nhân Dân Việt Nam đã giải phóng Campuchia, giải cứu dân tộc Khmer khỏi thảm họa diệt chủng.

Theo logic ngụy biện đánh đồng các cuộc chiến tranh kể trên thì nhà Thanh đã xâm lược Bắc Kỳ, Trung Quốc đã xâm lược Bắc Triều Tiên, còn Liên Xô thì đã xâm lược nước Đức.

Việt Nam không đưa quân sang Hoa Kỳ xâm lược như quân Mỹ đã sang Việt Nam xâm lược, như Khmer Đỏ đưa quân sang VN xâm lược.

Do Khmer Đỏ liên tục đưa quân sang xâm lược VN và sau tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược không chịu dừng tay, nên VN đành phải tiến hành cuộc chiến tranh bắt buộc để bảo vệ bờ cõi, ổn định biên giới Tây Nam và dứt điểm cuộc chiến tranh xâm lược của Khmer Đỏ, lật đổ Khmer Đỏ, giải phóng đất nước Campuchia và người dân Khmer khỏi thảm họa diệt chủng, diệt vong.

Đó là một cuộc chiến tranh vừa giúp bạn vừa giúp mình và cũng vì nghĩa vụ quốc tế, nghĩa vụ giữa những người đồng chí với nhau.

Đó là một cuộc chiến tranh bắt buộc, không ai muốn xảy ra, trong một tình hình bất ổn rối ren của thời hậu chiến sau giải phóng khi mà khát vọng hòa bình luôn cháy bỏng.

Chính Khmer Đỏ đã phá đổ khát vọng hòa bình khi đưa quân gây ra cuộc chiến tranh xâm lược, đánh vào nhiều tỉnh thành của Việt Nam, dẫn đến cuộc chiến tranh phản công biên giới Tây Nam, một cuộc chiến tranh bắt buộc.

(Tổng hợp)

Công hàm Phạm Văn Đồng không liên quan đến chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa

Công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng (tên gọi phổ biến: “Công hàm Phạm Văn Đồng”), là công hàm do Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai trong thời Chiến tranh Việt Nam, vào ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Trong công hàm này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho biết phía Việt Nam sẽ tôn trọng 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc.

Điều này là đúng theo thông lệ, tập quán quốc tế về 12 hải lý lãnh hải của mỗi quốc gia trong thời điểm 1958, và thực tế về sau con số 12 hải lý đã được quy định trong pháp lý quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea – UNCLOS).

Công hàm này không có ý nghĩa chuyển giao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung Quốc, trong công hàm không có nội dung như vậy.

Nội dung công hàm không nói về vấn đề chuyển nhượng chủ quyền hay quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

1958_diplomatic_note_from_phamvandong_to_zhouenlai

Thưa Đồng chí Tổng lý,

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể.

Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.

Ngày 22 tháng 9 năm 1958, công hàm trên của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được đăng lại trên báo Nhân Dân.

Chính phủ Trung Quốc suy diễn (ngụy biện) rằng công hàm Phạm Văn Đồng là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Có thể thấy rõ, nội dung công hàm không có chỗ nào công nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc.

Năm 1958, nếu đặt giả định Việt Nam dân chủ cộng hòa có quản lý hai quần đảo này thì công hàm Phạm Văn Đồng vẫn không đem lại giá trị pháp lý cho Trung Quốc về tuyên bố chủ quyền của họ đối với hai quần đảo.

Bởi vì, nội dung cụ thể trong công hàm chỉ ủng hộ “quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc” trong bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, chứ không đề cập đến các nội dung khác của Trung Quốc trong bản tuyên bố đó, như các nội dung tuyên bố về Đài Loan, về các quần đảo khác, Hoàng Sa, Trường Sa, nhất là khi hai quần đảo này nằm ngoài rất xa phạm vi 12 hải lý lãnh hải Trung Quốc.

Quần đảo Hoàng Sa cách Hải Nam (tỉnh cực nam của Trung Quốc), khu vực cuối cùng mà Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã thực thi và xác lập chủ quyền vào thời điểm năm 1958, khoảng 230 hải lý (265 dặm Anh, 426 km), Trường Sa còn xa hơn ở phía Nam.

Do đó, lập luận “Chính phủ Việt Nam tôn trọng bản tuyên bố và bản tuyên bố đó có nói Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc, thì tức là đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa” hoàn toàn là một ngụy biện không thuyết phục và không đem lại giá trị pháp lý về chủ quyền.

Việt Nam tôn trọng “12 hải lý lãnh hải Trung Quốc” trong bản tuyên bố của Trung Quốc, không phải là ủng hộ toàn bộ nội dung trong bản tuyên bố, hay các nội dung về Hoàng Sa, Trường Sa trong đó.

Nội dung “12 hải lý lãnh hải Trung Quốc”, theo tập quán và pháp lý quốc tế, là một nội dung cụ thể được định rõ và chỉ có giá trị pháp lý trong phạm vi cụ thể đó. Việc suy diễn mơ hồ xa hơn hoàn toàn không đem lại giá trị pháp lý về chủ quyền cho Trung Quốc đối với hai quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa.

Bối cảnh lịch sử

Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1958 đã diễn ra hội nghị ở Geneva, Thụy Sĩ, bàn thảo về việc thiết lập Công ước Luật biển quốc tế, nhằm mục đích đi đến nhận thức chung và đưa ra ký kết về việc thiết lập một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, tiếp nối hội nghị năm 1956.

Hội nghị này là tiền đề cho sự hình thành của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển về sau.

Hội nghị năm 1958 bàn về 4 vấn đề để đưa ra ký kết và đạt thành công ước:

1. Lãnh Hải và Vùng Tiếp Giáp

2. Thềm Lục Địa

3. Hải Phận Quốc tế

4. Nghề Cá và Bảo Tồn Tài nguyên Sống ở Hải Phận Quốc tế

Trong hội nghị này, Mỹ – Trung, 2 chủ thể tranh luận chính của hội nghị, đã bất đồng quan điểm về khoảng cách lãnh hải quốc gia là 12 hải lý hay là 3 hải lý.

Ngoài ra, còn có một số quốc gia ủng hộ những con số khác, có những quốc gia muốn 4, 5 hải lý. Con số lớn nhất, đến 200 hải lý, cũng được một số quốc gia châu Mỹ Latinh đề xuất.

Hoa Kỳ khi đó đang tăng cường kiểm soát biển Đông và Hạm đội 7 đang có lợi ích quân sự cốt lõi ở đây, để chuẩn bị phục vụ cho chiến trường Việt Nam, nên đã đề xuất 3 hải lý, là con số thấp nhất trong số những đề xuất trong hội nghị. Quân đội Mỹ muốn được tự do hoạt động trên biển Đông.

Việt Nam dân chủ cộng hòa lúc đó đang ở trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, một phần do nhu cầu an ninh quốc gia, một phần do tính chất khách quan của chủ đề luật biển, đã ủng hộ quan điểm 12 hải lý của Trung Quốc.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi bức thư là để thể hiện lập trường ủng hộ nói trên, không phải là để công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc hay từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo này.

Sự đúng đắn và hợp lý của công hàm Phạm Văn Đồng càng được thể hiện rõ hơn khi sau này Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) được hoàn thiện thì lãnh hải mỗi quốc gia đúng là 12 hải lý. Các chuyên gia hàng hải quốc tế và Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận theo đề xuất của Trung Quốc và Việt Nam về “12 hải lý”, thay vì “3 hải lý” theo đề xuất của Hoa Kỳ.

402px-zonmar_vi.svg_402px-zonmar-en.svg_
Vùng lãnh hải từ tập quán quốc tế đến pháp lý quốc tế đều là 12 hải lý theo quyền hạn quốc gia căn cứ theo United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS) – Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển

Kết luận

Nhìn chung, giới nghiên cứu và cộng đồng tri thức quốc tế đều có quan điểm khá đồng thuận là điều quan trọng nhất trong đề tài này là Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nên không thể suy diễn rằng Việt Nam đã xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa hay Trường Sa.

Sau này, vì những mục đích chính trị khác nhau, nhiều người đã diễn giải khác đi nội dung và ý nghĩa của bức công hàm, đặc biệt là Trung Quốc và một bộ phận người Việt ở hải ngoại và trong nước.

(Tổng Hợp)

Tìm hiểu về “chính quyền” và “ngụy quyền” dưới góc độ ngôn ngữ học

“Chính quyền”

“Chính” là một từ gốc Hán trong Việt ngữ, có nguồn gốc từ 2 chữ “chính” đồng âm dị nghĩa trong Hán ngữ: 政 (cả giản thể và phồn thể) và 正 (cả giản thể và phồn thể).

Trong tiếng Việt, chữ “chính” tồn tại dưới hai nghĩa:

Một chữ “chính” (政) có nghĩa là chính trị, bao hàm chính quyền (quyền lực chính trị), chính sách, hành chính, chấp chính, nhiếp chính, bưu chính,  chính biến, chính kiến, nội chính, chuyên chính, tài chính, triều chính, chính ủy.

Một chữ “chính” (正) có nghĩa là chính giữa (sự ngay thẳng), bao hàm chân chính, chính nghĩa, chính trực, chính đạo, chính khí, chính đáng, chính sử, chính thống, chính danh, chính ngôn, chính thức, thuần chính, đoan chính, cải chính, chính hiệu, chính hãng, chính xác, đính chính, nghiêm chính (nghiêm chỉnh), chính – tà, cần kiệm liêm chính, danh môn chính phái, quang minh chính đại, cải tà quy chính.

Như vậy, “ngụy quyền” chỉ là một cụm từ gọn hơn cho “ngụy chính quyền” hoặc “chính quyền ngụy”, mà không phải là một “phản nghĩa” đối lập với khái niệm “chính quyền”.

“Ngụy quyền”

“Ngụy” là một từ gốc Hán trong tiếng Việt, có nguồn gốc từ 2 chữ “ngụy” đồng âm khác nghĩa trong Hán ngữ: 魏 (cả giản thể và phồn thể) và 伪 (phồn thể: 偽).

Trong Việt ngữ, chữ “ngụy” tồn tại dưới hai dạng tính từ (伪) và danh từ (魏).

Với ý nghĩa là một danh từ, “Ngụy” (魏) dùng để chỉ địa danh và họ người tại Trung Quốc và Đông Á, như nước Ngụy thời Xuân Thu Chiến Quốc, nhà Ngụy thời Tam Quốc, dòng họ Ngụy tại Đông Á. Danh từ “Ngụy” này được viết hoa.

Với ý nghĩa là một tính từ, “ngụy” (伪) bao hàm sự giả tạo, giả trá, gian trá, như ngụy tạo, ngụy biện, ngụy trang, trá ngụy.

Trong lịch sử, ở góc độ thuật ngữ chính trị, từ này thường được dùng để chỉ một triều đình hoặc một chính quyền do soán đoạt, cướp ngôi mà có, hoặc do giặc xâm lược nước ngoài ngụy tạo thành một cách bất chính, bất hợp pháp, không chính danh, phi nghĩa, phi chính thống, không được Nhà nước hợp hiến hợp pháp trong nước công nhận, nhằm mục đích ngụy trang về chính trị và hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược, như ngụy quan (thời khởi nghĩa Lam Sơn), ngụy triều (triều đình Huế thời Pháp thuộc), ngụy binh (lính dõng, lính tập, lính khố xanh, khố đỏ, khố vàng, Quân đoàn Bộ binh Bắc Kỳ), ngụy quân (lính Lê Dương gốc Việt, quân đội Quốc Gia của Bảo Đại tay sai của thực dân Pháp, quân đội Sài Gòn tay sai của Mỹ), ngụy quyền (chính quyền Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc tay sai Pháp, chính quyền Quốc Gia của Bảo Đại tay sai Pháp, chính quyền Sài Gòn tay sai Mỹ), ngụy Uông (chính quyền Uông Tinh Vệ thời Dân Quốc và chiến tranh kháng Nhật ở TQ), ngụy Mãn Châu (chính quyền Phổ Nghi, Mãn Châu quốc thời Dân Quốc và chiến tranh kháng Nhật ở TQ). Tính từ “ngụy” này không cần phải viết hoa.

Về bản chất, chính quyền ngụy không có quyền lực thực chất, họ bị giặc xâm lược kiểm soát, khống chế hoặc điều khiển. Họ cũng không có năng lực tự thân tồn tại mà không có sự nuôi dưỡng của quân xâm lược.

Trong chiến tranh Trung – Nhật (1937-1945), Trung Quốc bị Nhật Bản xâm lược, hai đảng Quốc – Cộng hợp tác chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật. Trong thời gian này chính phủ Nam Kinh “Trung Hoa Dân quốc” của Uông Tinh Vệ và chính phủ “Mãn Châu quốc” của cựu hoàng Phổ Nghi đều bị cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch gọi là “ngụy quân, ngụy quyền, ngụy Mãn Châu, Uông ngụy” hoặc “ngụy chính phủ”, do các chính quyền tay sai này được quân xâm lược Nhật dựng lên để hợp thức hóa danh nghĩa chính trị xâm lược và sử dụng các lực lượng ngụy quân và chính phủ ngụy này để làm công cụ phục vụ cho cuộc xâm lược đó.

Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi trên sách báo, truyền thông, phim ảnh Hoa ngữ ở Trung Quốc và Đài Loan cho đến ngày nay.

Giai đoạn 1895-1945, bán đảo Triều Tiên bị đế quốc Nhật Bản thống trị, hàng trăm ngàn người nam bắc Triều Tiên đã cộng tác với đế quốc Nhật đàn áp phong trào đấu tranh của dân tộc mình, vì vậy ngày nay, sử sách Hàn Quốc và Triều Tiên đều gọi những người này là “ngụy quân”.

Sau khi giành được thành lập quốc gia, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên đã bắt giam hoặc tiến hành xử bắn hàng loạt người từng hợp tác với đế quốc Nhật trước đây. Còn tại Hàn Quốc, trong Hiến pháp có hẳn một quy định về đối tượng này. Trung tâm Sự thật và Công lý lịch sử Hàn Quốc (CHTJ) đã lập ra một danh sách những người từng cộng tác với đế quốc Nhật giai đoạn 1895-1945 để xem xét về lý lịch đối với con cháu của họ.

Ở phương Tây, thuật ngữ “ngụy quyền” còn có các cách gọi khác, đó là “chính quyền tay sai”, hoặc “chính phủ bù nhìn, chế độ tay sai, nhà nước con rối” (fictive state, puppet state, puppet regime, puppet government).

Về chính quyền Sài Gòn, tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968, do NXB Đại học Cambridge (Anh) xuất bản năm 2008, đã ghi rõ như sau: “Chính thể Sài Gòn không thể tự nuôi nổi chính mình; thậm chí không thu đủ lợi tức cho hoạt động hàng ngày. Họ phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ.” và “Từ trước đó, giới chức đã thôi nói về xây dựng quốc gia, cải cách điền địa, dân chủ, minh bạch. Thay vào đó, họ bàn về một cuộc chiến phải thắng trước những kẻ thù của fictive state (nhà nước giả tưởng, hư cấu, hư ảo) Nam Việt Nam. Quỹ đạo này của chính sách Mỹ khiến người ta gần như không thể nói thật về những thành công, thất bại, đặc biệt là với các nhà hoạch định chính sách. Chưa bao giờ Hoa Kỳ đạt tới điểm khi chính thể Sài Gòn có thể tự mình tồn tại mà không nhờ viện trợ Mỹ.“

Nếu nhìn lại tình hình thực tế ở miền Nam Việt Nam từ kinh tế, tài chính đến chính trị, quân sự thì có thể thấy tiến sĩ sử học Carter đã nói đúng.

Về nguồn gốc ra đời, cả chính quyền Bảo Đại thời Pháp và chính quyền Sài Gòn thời Mỹ đều do nước ngoài ngụy tạo ra, để chống lại một quốc gia hợp hiến, hợp pháp duy nhất là Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thành lập từ năm 1945 và đã hoàn thành thực thi và xác lập chủ quyền qua Hiến Pháp, luật pháp của Quốc hội từ năm 1946.

Vì vậy, đây không phải là một từ ngữ có bản chất miệt thị, lăng mạ, hay không khoa học, khách quan, khi mà cộng đồng quốc tế vẫn luôn sử dụng những ngôn từ có tính chất nhấn mạnh bản chất của sự vật, hiện tượng như “ngụy”, “bù nhìn”, “tay sai”, “con rối” để chỉ một thực thể chính trị do quân xâm lược từ bên ngoài ngụy tạo nên để làm một công cụ phục vụ cho quân xâm lược và cuộc xâm lược đó.

Nhật Lĩnh tổng hợp

Chiến tranh Triều Tiên: Cuộc đại chiến bị lãng quên giữa hai cường quốc Mỹ – Trung

Chiến tranh Triều Tiên, vì lý do chính trị, trở thành cuộc chiến bị lãng quên trong giới truyền thông chủ lưu ở Hoa Kỳ và truyền thông chính thống ở Trung Quốc.

Tại Trung Quốc, chế độ chính trị muốn “quên đi” cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều (cách truyền thông Trung Quốc gọi Chiến tranh Triều Tiên) này vì đây là công lớn của nguyên soái Tổng tư lệnh Bành Đức Hoài. Năm 1959, Trung Quốc đã ngưng việc tuyên truyền chiến thắng vang dội trong chiến tranh kháng Mỹ viện Triều khi mâu thuẫn quyền lực và bất đồng quan điểm giữa đại nguyên soái Bành Đức Hoài với Mao Trạch Đông và phần lớn Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Bành Đức Hoài phê phán Mao Trạch Đông về chính sách Đại Nhảy Vọt và đấu tranh để bảo vệ quan hệ hữu nghị Trung – Xô. Do đó, kể từ sau Hội nghị Lư Sơn năm 1959, chiến thắng quân sự của Trung Quốc, đi kèm với chiến công của tổng tư lệnh Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều Tiên đã trở thành một đề tài đặc biệt nhạy cảm và có tính chất “cấm kỵ” trong giới truyền thông nước này.

Tại Hoa Kỳ, một bộ phận lớn trong giới truyền thông chủ lưu đã gọi tên cuộc chiến bằng danh từ The Forgotten War (Cuộc chiến tranh bị lãng quên). Chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến tranh mà người Mỹ muốn quên đi do sự thất bại triệt để của họ về chiến lược và chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên, “hội chứng Việt Nam” bùng phát từ 20 năm chiến tranh thì người dân và cựu binh Mỹ khó lòng quên được.

Nhưng người Mỹ đã thành công “quên lãng” cuộc chiến tranh 3 năm ở Triều Tiên. Vì sao họ muốn quên lãng thì chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết này.

Chiến tranh Việt Nam

Mỹ đã xâm lược Bắc Triều Tiên như thế nào?

Năm 1950, đại quân CHDCND Triều Tiên do nguyên soái Kim Il-sung đích thân thống lĩnh đã từ Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực xuống Nam Triều Tiên.

Theo ý kiến tham mưu từ bên Trung Quốc, Kim sử dụng chiến thuật tốc chiến tốc quyết (đánh nhanh giải quyết nhanh, như ban đầu ở ĐBP của VN). Họ đánh thắng như chẻ tre vì quân đội Hàn Quốc (thành lập từ tàn quân Quân Giải phóng Triều Tiên, Quân Cách mạng Triều Tiên phái hữu, Đại Hàn quang phục quân thời đánh Nhật và tân binh Syngman Rhee mới chiêu mộ), bộ phận tinh binh này tuy rất thiện chiến nhưng không có xe tăng hay vũ khí chống tăng đáng kể.

Quân đội Hàn Quốc với khoảng 600.000 quân, đông gấp đôi đối thủ, nhưng chính vì sự đông đảo lai tạp, pha trộn giữa lính cũ (chống Nhật) và lính mới, đã phản tác dụng và khiến quân đội Hàn Quốc bị thua nhanh. Họ nhanh chóng đại bại, nhiều thành phố đồng loạt đầu hàng, dẫm đạp lên nhau chạy trong nhiều trận đánh. Quân Hàn bị bất lực và hoảng loạn trước loạt xe tăng hiện đại của Triều Tiên rầm rộ tốc chiến tốc thắng trên đường phố đô thị Hàn Quốc như chốn không người.

Quân đội thiện chiến hơn của Triều Tiên với vũ khí tối tân của Liên Xô đánh nhanh thắng thanh, tiến thẳng về thủ đô Seoul truy đuổi Syngman Rhee. Syngman Rhee bị thua trận, lâm nguy đành khẩn cấp cầu viện Mỹ.

Hoa Kỳ nhân danh Liên Hiệp Quốc, cử danh tướng Douglas McArthur – người hùng trong Thế chiến II – làm tổng tư lệnh, các tướng Matthew Ridgway, Mark Wayne Clark phụ tá, sang Hàn Quốc cứu nguy chư hầu.

Ban đầu, nhờ đang trên thế thắng sĩ khí đang cao nên quân Triều Tiên giữ được ưu thế, vây chặt quân Mỹ và tàn quân Hàn Quốc ở Pusan.

Nhằm gỡ bỏ thế nguy, McArthur dùng mưu kỳ binh đột kích vào Inchon, cắt đôi quân đội Triều Tiên, khiến họ đầu đuôi không thể cứu ứng nhau.

Nhờ trận đại thắng này, Mỹ và liên quân từng bước nhanh chóng đánh bại gần 300.000 quân Triều Tiên. Nhân cơ hội quân Triều Tiên thua chạy, vỡ trận, hỗn loạn và “binh bại như núi đổ”, gần 300.000 liên quân 16 nước được Mỹ cầm đầu liền vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên, rầm rộ tiến về thủ đô Bình Nhưỡng truy kích nhà họ Kim.

Nhà Kim và những lãnh đạo Đảng cấp cao của CHDCND Triều Tiên phải đào vong sang khu vực biên giới giáp ranh Mãn Châu, Trung Quốc, cầu viện khẩn cấp.

Trước tình hình quân Mỹ đã đến sát sườn và McArthur liên tục hạ lệnh cho ném bom và pháo kích sang bên kia sông Áp Lục để phá hủy các căn cứ quân sự biên phòng của Trung Quốc, Mao Trạch Đông phái danh tướng Bành Đức Hoài – vị nguyên soái uy tín – làm tổng tư lệnh và chính ủy, hai tướng Đặng Hoa, Trần Canh làm phụ tá, đem 270 nghìn quân vượt sông Áp Lục sang Triều Tiên cứu viện. Sau 3 tháng chiến sự, giai đoạn 2 và cũng là giai đoạn chính của chiến tranh Triều Tiên mà Trung Quốc gọi là cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều chính thức bắt đầu.

Ngoài hai cánh tay đắc lực là Trần Canh và Đặng Hoa, Bành Đức Hoài còn được sự phụ tá từ những trợ thủ đắc lực từng có nhiều quân công trong chiến tranh Trung – Nhật và nội chiến Quốc – Cộng: Dương Đắc Chí, Dương Dũng, Lý Chí Dân, Vương Bình.

Trung Quốc đã đưa một lực lượng hùng hậu từ binh lính đến tướng soái đến Bắc Triều Tiên để cứu nhà Kim đang trên bờ vực sụp đổ.

Trước những thông tin tình báo sai lệch của CIA, Washington và McArthur luôn chủ quan trong suốt thời gian này. Họ không tin Trung Quốc dám tiến hành chiến tranh cứu viện, vì không tin Trung Quốc có thể tập trung được một số quân đủ lớn để tiến hành chiến tranh vào trong lãnh thổ Triều Tiên.

Người Mỹ tin rằng bất kỳ động thái nào của Trung Quốc đều nằm trong vòng kiểm soát, nắm bắt của họ. Trước cuộc đụng độ lịch sử với Bành Đức Hoài, McArthur còn không tin sẽ có chiến tranh với Trung Quốc, nói: “Nếu Trung Quốc dám xuống đây thì sẽ có một cuộc thảm sát lớn nhất đối với chúng.”

Nhưng Bành Đức Hoài đã gây bất ngờ lớn, chỉ trong vòng một thời gian rất hạn chế, eo hẹp mà ông ta tập kết được gần 300.000 quân, một quân số lớn mà ngày nay với khoa học kỹ thuật tân tiến, phương tiện chuyên chở tốc độ cao cũng vẫn khó thực hiện.

Dưới danh nghĩa quân tình nguyện (Chí nguyện quân), Trung Quốc đem ~300.000 quân vượt sông Áp Lục sang Triều Tiên quyết chiến với Mỹ. Điều bất ngờ này đã làm Mỹ và liên quân bị choáng váng trong thời gian đầu. Cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và McArthur đều không ngờ Trung Quốc có thể tập kết quân đội và xuất quân thần tốc đến vậy.

Viện binh Trung Quốc tăng dần theo thời gian và cuộc chiến đã diễn ra vô cùng kịch tính và quyết liệt suốt 3 năm sau đó.

Với gần 1 triệu rưỡi quân, Bành Đức Hoài phối hợp chiến thuật vây đánh, bố ráp, đánh hậu tập, siết chặt vòng vây với chiến thuật biển người cổ điển. Trung Quốc giúp Triều Tiên giải phóng được thủ đô Bình Nhưỡng từ tay Mỹ và đánh lui quân Mỹ sang phía bên kia biên giới tại vĩ tuyến 38. Người Mỹ hoàn toàn bị bỡ ngỡ bởi cách đánh của Bành Đức Hoài, các chiến thuật chia quân, đặt phục binh đúng chỗ, các mưu kế dụ địch mà McArthur từng thành công trước đây đều không có tác dụng gì với Bành Đức Hoài, một chuyên gia quân sự lão luyện.

Bị thua, McArthur dọa sẽ không loại trừ khả năng dội bom nguyên tử xuống Trung Quốc và Bắc Triều Tiên như đã ném xuống 2 thành phố Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Mỹ sai Matthew Ridgway sang thay thế bại tướng McArthur với lý do là vì ông này “bất tuân thượng lệnh của Tổng thống” để vãn hồi danh dự.

McArthur thua Bành Đức Hoài là vì ông ta quá nghiêng về hướng sử dụng mưu kế tiểu xảo để thủ thắng, nhưng Bành Đức Hoài là vị tướng cẩn thận “trăm trận không thua” đã không cho ông ta bất kỳ cơ hội nào. Thay vào đó, Bành lợi dụng ưu thế quân đông mà vây ép dần quân Mỹ đẩy ngược họ sang phía bên kia biên giới Triều – Hàn. Trong suốt cuộc chiến tranh Triều Tiên, Bành đã không đi một nước cờ sai sót lớn nào về chiến lược quân sự, theo chủ trương “chậm mà chắc”, rút kinh nghiệm từ thất bại của Kim Nhật Thành trước đó.

Ngoài ra Trung Quốc cũng có những chiến thuật tác chiến đầy mưu mẹo có tính chất du kích mà quân Mỹ chưa từng kinh qua bao giờ và có những sự bối rối nhất định.

Bành Đức Hoài mặc dù ở sân khách phải bỏ đi sở trường chiến tranh du kích, phải theo sở đoản trận địa chiến và chiến tranh quy ước kiểu Mỹ, nhưng vẫn cố gắng phát huy lối đánh “Thái cực quyền” của Mao Trạch Đông, đó là phương châm: Địch lui – ta tiến, địch tiến – ta lùi, địch dừng lại – ta quấy rối.

Nhằm tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác của người dân bản xứ vốn đang phân vân hoảng loạn giữa 2 lực lượng quân đội ngoại bang đang đánh nhau trên lãnh thổ của mình, nguyên soái Bành cho thực hiện nghiêm khắc “3 đại kỷ luật, 8 điều chú ý” để tránh nhũng nhiễu đến dân.

Ridgway với tư duy quân sự mới và lối đánh “nhà giàu”, tận dụng hỏa lực dồi dào và không lực Hoa Kỳ, đã từng bước giành lại ưu thế.

Sau cuộc chiến tranh 3 năm, Mỹ cũng chiếm lại được một vài khu vực trước kia thuộc về CHDCND Triều Tiên. Hai bên giằng co rồi cũng đi đến ký kết ngưng bắn giữa Trung – Triều và Liên Hiệp Quốc ở Bàn Môn Điếm. Chiến tranh coi như kết thúc.

Đến ngày hôm nay, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam vẫn là hai cuộc chiến tranh mà nước Mỹ muốn quên lãng vì sự thất bại ê chề của họ. Chiến tranh VN kéo dài 20 năm nên khó quên. Trong khi đó, cuộc chiến tranh TT thì ở Mỹ đến nay vẫn gọi là “Cuộc chiến tranh bị lãng quên” (The Forgotten War) với hiện thực thua trận mà người Mỹ không muốn nhắc tới, không dám nhớ tới, để bảo vệ cho lòng tự tôn nước lớn “American dream” của mình.

(ST)

 

 

Kháng chiến chống Mỹ: Không thể bỏ cách gọi “ngụy quân, ngụy quyền”

 

LUẬN GIẢI KHÁI QUÁT VỀ CHỮ “NGỤY”

BPO – Hiện nay, nhiều người vì không hiểu hoặc cố tình không hiểu cụm từ “ngụy quyền, ngụy quân”, hoặc vì mục đích xấu xa, đen tối nào đó nên ra sức kêu gào bỏ cách gọi “ngụy quyền, ngụy quân”, vì như thế là “không chính xác, mang tính xúc phạm, miệt thị”. Đây là nhận thức ấu trĩ, lệch lạc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhận thức lịch sử của các tầng lớp nhân dân hiện nay, tạo điều kiện để các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, kích động hòng vực dậy “thây ma” tập đoàn bán nước, hại dân trước năm 1975. Vì vậy, cần phải làm rõ: Vì sao gọi là “ngụy”?

“Ngụy” là 1 từ gốc Hán trong tiếng Việt, tồn tại dưới 2 dạng tính từ và danh từ, thường dùng để chỉ sự vật, sự việc mang tính giả tạo, không chính danh. Với ý nghĩa là một tính từ, “ngụy” bao hàm sự giả tạo, ví dụ như ngụy tạo, ngụy biện, ngụy trang, ngụy quân, ngụy quyền. Trong lịch sử, về mặt chính trị, từ này được dùng để chỉ một triều đại hoặc một chính quyền do soán đoạt ngôi mà có, hoặc do bọn ngoại bang nước ngoài dựng lên một cách bất hợp pháp, không được người dân công nhận, để hợp thức hóa sự đô hộ, xâm lược với một nước khác. Về bản chất, chính quyền này không có thực quyền, chỉ là “hữu danh vô thực”, bị bọn xâm lược nước ngoài khống chế, mang tính bất hợp pháp và không chính danh.

Trong lịch sử các nước châu Á, ngoài Việt Nam thì các quốc gia khác như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, từ “ngụy triều, ngụy quyền” cũng được sử dụng nhiều trong các văn bản, thư tịch lịch sử. Chẳng hạn như cách gọi các triều đình “ngụy Sở” (1127-1128) của Trương Bang Xương, “ngụy Tề” (1130-1137) của Lưu Dự được nhà Kim (1115-1234, một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc) lập ra nhằm hợp thức hóa sự xâm lược của nhà Kim với các quốc gia lân bang có chủ quyền khác. Trong chiến tranh Trung – Nhật (1937-1945), Trung Quốc bị Nhật Bản chiếm đóng, Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân quốc của Uông Tinh Vệ và Chính phủ Mãn Châu quốc của Phổ Nghi bị cả Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch gọi là “ngụy quyền, ngụy quân, ngụy Mãn Châu” hoặc “chính phủ ngụy” do các chính phủ này được đế quốc Nhật Bản lập ra nhằm hợp thức hóa sự xâm lược của mình đối với Trung Quốc. Thuật ngữ này còn được sử dụng phổ biến trên các kênh truyền thông, sách báo, phim ảnh Trung Quốc và Đài Loan (của Quốc dân đảng) cho tới tận ngày nay.

Giai đoạn 1895-1945, bán đảo Triều Tiên bị đế quốc Nhật Bản đô hộ, hàng trăm ngàn người Triều Tiên (gồm cả người Hàn Quốc và người Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên hiện nay) đã cộng tác với đế quốc Nhật Bản đàn áp phong trào đấu tranh của đồng bào mình, vì vậy ngày nay, sử sách Hàn Quốc và Triều Tiên đều gọi những người này là “ngụy quân”. Sau khi giành được độc lập, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên đã bắt giam hoặc tiến hành xử bắn hàng loạt người từng hợp tác với đế quốc Nhật trước đây.

Còn tại Hàn Quốc, trong Hiến pháp có hẳn một quy định về đối tượng này. Trung tâm Sự thật và Công lý lịch sử Hàn Quốc (CHTJ) đã lập ra một danh sách những người từng cộng tác với đế quốc Nhật giai đoạn 1895-1945 để xem xét về lý lịch đối với con, cháu của họ. Ở phương Tây, thuật ngữ “ngụy quyền” còn có các cách gọi khác, đó là “chính quyền tay sai”, hoặc “chính phủ bù nhìn, chế độ tay sai, nhà nước con rối” (puppet state, puppet regime).

Với ý nghĩa là một danh từ, “ngụy” dùng để chỉ địa danh, tên gọi tại Trung Quốc trước đây, như nước Ngụy thời Xuân Thu Chiến Quốc – một nước chư hầu thời Tây Chu, nhà Tào Ngụy thời Tam quốc, huyện Ngụy ở phía Nam tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc) ngày nay hay dòng họ Ngụy tại Đông Nam Á. Từ “Ngụy” này được viết hoa.

Như vậy có thể thấy, chữ “ngụy” là sản phẩm ngôn ngữ của nhiều nước trên thế giới, không phải do người Việt tự tạo trong thời gian gần đây. Đó là cách gọi của sự giả tạo, không thật, không chính danh chứ không phải là áp đặt cho sự xấu xa của tất cả những thành tố được ghép với chữ “ngụy”. Những người khó chịu, mẫn cảm, dị ứng từ “ngụy” này là những người thiếu kiến thức, thiếu thông tin về cuộc chiến Việt – Pháp, Việt – Mỹ, mù mờ, mơ hồ, chưa biết nhiều vấn đề trong lịch sử, họ không hiểu bản chất, ý nghĩa của từ “ngụy” theo góc độ thuật ngữ chính trị. Họ tưởng rằng từ “ngụy” là một từ gì đó mang tính lăng mạ, miệt thị, mạt sát…

Thật ra, chữ “ngụy” đã được sử dụng từ rất lâu trong lịch sử Việt Nam, nhằm ám chỉ những chế độ, triều đình mang tính không chính danh, soán quyền, đoạt ngôi. Nhà sử học Trần Trọng Kim, trong cuốn sách “Việt Nam sử lược” đã viết: “Những người làm quốc sử nước Tàu và nước ta thường chia những nhà làm vua ra chính thống và ngụy triều. Nhà nào, một là đánh giặc mở nước, sáng lập ra cơ nghiệp, hai là được kế truyền phân minh, thần dân đều phục, ba là dẹp loạn yên dân thì cho là chính thống. Nhà nào, một là làm bề tôi mà cướp ngôi, làm sự thoán đoạt không thành; hai là xưng đế, xưng vương ở chỗ rừng núi, hay là ở đất biên địa; ba là những người ngoại chủng vào chiếm nước làm vua, thì cho là ngụy triều”. Ví dụ, nhà Mạc soán ngôi nhà Hậu Lê nên bị các sử gia thời Lê Trung hưng gọi là “ngụy Mạc”. Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam năm 2007 định nghĩa: “Ngụy quyền là chính quyền bản xứ do thế lực nước ngoài dựng lên, nuôi dưỡng, sử dụng làm công cụ xâm lược, nô dịch họ”. Như vậy, theo các định nghĩa đã nêu, đương nhiên không phải bàn cãi thì cả chính quyền Bảo Đại (1949-1954) và chính quyền Sài Gòn (1954-1975) do Pháp và Mỹ dựng lên ở Việt Nam đều là “ngụy quyền”.

Vậy thì, cách gọi “ngụy” tại Việt Nam có từ bao giờ? Nó dùng để ám chỉ ai? Tại sao Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa đều là “ngụy quyền”? Để khách quan và công bằng, chúng ta cùng phân tích, làm rõ nguồn gốc ra đời và tính chính danh của chính quyền Quốc gia Việt Nam thời Pháp thuộc và Việt Nam Cộng hòa thời Mỹ xâm lược để thấy được lý do vì sao không thể bỏ chữ “ngụy”.

VÌ SAO KHÔNG THỂ BỎ CHỮ “NGỤY”?

Trước năm 1945, thực dân Pháp chia nước ta thành 3 kỳ là Cochinchine (Nam kỳ), Annam (Trung kỳ) và Tonkin (Bắc kỳ). Người Pháp cho phép duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn với các đời hoàng đế như Đồng Khánh, Khải Định, Bảo Đại và hoàn chỉnh bộ máy cai trị từ Trung ương đến địa phương. Các vị vua và nhà nước phong kiến của họ thực chất chỉ là bù nhìn, không hề có thực quyền, mọi công việc hằng ngày đều được ban ra từ một viên toàn quyền người Pháp.

Bên cạnh đó, người Pháp đã cho thành lập một số đơn vị quân đội bản xứ như Quân đoàn bộ binh Bắc kỳ, lính khố xanh, lính khố đỏ, lính khố vàng, lính tập, lính dõng…, nhằm hỗ trợ quân chính quy Pháp trong việc trấn áp các cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân và các lực lượng nổi dậy ở Việt Nam thời đó. Một số người Việt được toàn quyền Đông Dương tuyển dụng vào phục vụ trong đội quân lê dương của Pháp. Tất cả đội quân này đều do sĩ quan Pháp chỉ huy. Các lực lượng nghĩa quân và nhiều người dân bản xứ gọi các đội quân này là “ngụy quân” hoặc “ngụy binh” và gọi triều đình bù nhìn Huế là “ngụy triều”.

Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân ta từ Bắc chí Nam, từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau đã nhất tề nổi dậy làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Như vậy, lúc này, trên lãnh thổ Việt Nam, chỉ có một nhà nước và chính phủ hợp pháp duy nhất tồn tại do chính người dân bản xứ lập nên, đó là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, không từ bỏ dã tâm đô hộ đồng bào ta, thực dân Pháp sau đó đã nổ súng tiến công Sài Gòn, quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Năm 1948, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysee, tuyên bố thành lập Chính phủ Quốc gia Việt Nam nằm trong khối Liên hiệp Pháp, do Bảo Đại làm Quốc trưởng để làm đối trọng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Việt Minh.

Hiệp ước Elysee đã ghi rõ về vai trò chỉ huy của Pháp: “Trong thời chiến, toàn thể Quân đội Quốc gia Việt Nam và Liên hiệp Pháp được đặt chung dưới quyền chỉ huy của Ủy ban Quân sự mà Tư lệnh sẽ là một sĩ quan Pháp có một Tham mưu trưởng phụ tá”. Như vậy, Quân đội Quốc gia Việt Nam phụ thuộc hoàn toàn vào hệ thống hậu cần của Pháp. 2 vấn đề quan trọng nhất là tài chính và quân đội của Quốc gia Việt Nam thì vẫn do Pháp nắm giữ, nhân viên hành chính Pháp tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền, Quốc gia Việt Nam không được trao quyền hành thực sự nào, chỉ là một sự ngụy trang cho nền cai trị của Pháp.

Hiệp ước Elysee là bất hợp pháp, vì sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền, việc Pháp đem quân can dự vào Việt Nam là hành vi xâm lược, trái với luật pháp quốc tế. Bảo Đại (người ký Hiệp ước Elysee với Chính phủ Pháp) lúc này chỉ còn là một công dân bình thường, không có tư cách pháp lý đại diện cho đất nước Việt Nam, bởi vì ông ta đã thoái vị vào ngày 25-8-1945. Thời điểm đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất, đại diện cho toàn thể nhân dân Việt Nam, mọi văn bản do bất kỳ tổ chức, cá nhân nào ký với bất cứ chính phủ quốc tế nào mà không được phép của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều là vô giá trị.

Do Chính phủ Quốc gia Việt Nam được thành lập một cách bất hợp pháp và bị Pháp thao túng, điều khiển nên trong các văn bản của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Minh và các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều gọi chính phủ này là “ngụy quyền, ngụy quân”. Cũng trong khoảng thời gian này, Chủ tịch Hồ Chí Minh liên tục viết 3 bức thư gửi binh lính quân đội Quốc gia Việt Nam nhằm thuyết phục họ quay về với chính nghĩa, như: “Vận động ngụy binh” – tháng 6-1952, “Thư gửi các ngụy binh” – tháng 9-1952, “Lời kêu gọi ngụy binh quay về với Tổ quốc” – tháng 11-1952.

Thời đế quốc Mỹ xâm lược, chúng thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam – là chính phủ bù nhìn, do Mỹ thao túng – nên bị Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam coi là “ngụy quyền”. Và quân đội của nó – quân lực Việt Nam Cộng hòa được gọi là “ngụy quân”. Từ “ngụy quyền, ngụy quân” (nghĩa là chính quyền, quân đội bất hợp pháp) được sử dụng rộng rãi trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng và trên các phương tiện truyền thông chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Tổng thống Mỹ Nixon trong lúc giận dữ từng nói: “Không thể để cái đuôi chó phản lại cái đầu con chó được” (Những năm tháng ở Nhà Trắng của Henry Kissinger, xuất bản năm 1979). Tại cuộc họp do Hội “American Friends of Vietnam” – một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C ngày 1-6-1965, John Kennedy (sau này là Tổng thống Mỹ) đã tuyên bố: “…nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ (chỉ Việt Nam Cộng hòa) thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta chủ tọa lúc nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó. Đó là con đẻ của chúng ta, chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới nhu cầu của nó”. Điều này đã khẳng định rõ Mỹ là kẻ thù chính, còn “ngụy quyền, ngụy quân” chỉ là bù nhìn, tay sai bị lầm đường lạc lối, nếu Mỹ thất bại ở Việt Nam thì “ngụy quyền” tất yếu sụp đổ. Vì vậy, chúng ta xác định chỉ tiến hành đấu tranh với Mỹ, gọi đây là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chứ không phải là chống ngụy cứu nước, không hoàn toàn xem “ngụy quân”, “ngụy quyền” là kẻ thù.

Như vậy, về nguồn gốc ra đời, cả Quốc gia Việt Nam thời Pháp và Việt Nam Cộng hòa thời Mỹ đều do nước ngoài dựng lên, để chống lại một chính phủ hợp hiến, hợp pháp duy nhất lúc đó của Việt Nam là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vì thế, không có gì là miệt thị, phản cảm, hay không khoa học, không khách quan khi mà cả thế giới vẫn sử dụng những ngôn từ mạnh mẽ như “ngụy”, “bù nhìn”, “tay sai”, “con rối” để chỉ một chính phủ do nước ngoài tạo dựng nên nhằm phục vụ quyền và lợi ích của kẻ xâm lược. Chỉ có những hành động “lật sử”, đòi xét lại lịch sử, “ngụy sử” mới là phản cảm, đáng bị lên án mà thôi.

Nhất Huy (báo Bình Phước)

 

Phải chăng Việt Nam đã đánh đuổi hai nền văn minh nhân loại?

BP – Hiện nay, phụ họa cho trào lưu đòi xét lại lịch sử vô cùng nguy hiểm của các thế lực phản động, thù địch, đã và đang xuất hiện nhiều luận thuyết nhằm giải thích, bào chữa cho cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược Việt Nam trước đây của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong đó đáng chú ý hơn cả là nhận định “Việt Nam đánh Pháp, đuổi Mỹ thực chất là đánh đuổi các nền văn minh nhân loại”.

Luận điệu này xuất phát từ những tên phản động đội lốt “nhà báo, nhà trí thức cấp tiến, tiến bộ”, những kẻ cơ hội lưu manh chính trị như Trương Huy San, Dương Hoài Linh và được bọn “ba que xỏ lá”, cùng các thế lực thù địch trong, ngoài nước và các nhà “ngụy sử” sử dụng để mị dân. Hơn nữa, chúng coi đó như một tấm bùa hộ mệnh, lời bào chữa để bảo vệ, thanh minh cho những hành động hèn nhát, bán nước hại dân của chế độ phong kiến thối nát cuối đời nhà Nguyễn, chính quyền bù nhìn Sài Gòn trước đây. Đó là luận điệu của những kẻ vong ơn bội nghĩa, “ăn cây táo, rào cây sung”, một kiểu tư duy nô lệ.

Văn minh nhân loại là thành quả lao động sáng tạo chung của loài người, chứ không phải riêng có của chủ nghĩa tư bản, không phải được hình thành trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa. Tư bản xuất hiện là theo quy luật phát triển tất yếu khách quan của lịch sử, là chất xúc tác, là điểm mốc để đánh dấu một bước phát triển của hình thái kinh tế, xã hội và đó hoàn toàn không phải thành tựu tự thân của tư bản. Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện hàng ngàn năm, dưới chế độ cộng sản nguyên thủy hay thời kỳ phong kiến, thế giới đã chứng kiến sự phát triển rực rỡ của các nền văn minh như văn minh sông Hằng, văn minh sông Hồng (châu Á), hay văn minh Maya (châu Mỹ).

Vì vậy, có thể nói Việt Nam từ xa xưa cũng đã là một nền văn minh của nhân loại. Việc chúng ta đánh đuổi thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ, thực chất là đánh đuổi sự dã man, tàn bạo và tư tưởng áp bức, bóc lột, muốn nô lệ dân tộc khác mà thôi. Đó là hành động chính nghĩa để giành độc lập cho Tổ quốc và ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân…Do đó, nói Việt Nam đánh Pháp, đuổi Mỹ thực chất là đánh đuổi nền văn minh nhân loại là cách nói “tát bùn sang ao”, “cả vú lấp miệng em” hòng đánh lừa một bộ phận nhân dân nhẹ dạ cả tin và thiếu hiểu biết.

Với xu thế “lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết” thì sẽ chẳng ai lại dại dột từ chối, bỏ đi những mối lợi mà người khác đem lại cho mình, đó là bản chất của con người và nhân dân Việt Nam cũng không ngoại lệ. Nhưng, thực chất thì tất cả những gì thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ trước đây đem đến cho chúng ta có hoàn toàn là những giá trị văn minh không? Thực chất hành động đó có phải đi khai sáng văn minh cho dân tộc ta như những gì chúng từng rêu rao không? Câu trả lời chắc chắn là không!

Trước hết, hãy nói về hành động đem quân xâm lược, nô dịch một đất nước có chủ quyền của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ như vậy đã là văn minh chưa, có xứng đáng là những nền văn minh của nhân loại? Rồi khi những “nền văn minh nhân loại” đó vào Việt Nam, sự thực như thế nào thì không chỉ người Việt Nam, mà cả bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều thuộc nằm lòng, rằng: Từ năm 1858 đến trước khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta lúc đó đã được hưởng những thành tựu văn minh gì, ngoài làm một kiếp ngựa trâu không hơn không kém, là trên 90% nhân dân mù chữ, tài nguyên thiên nhiên của đất nước bị vơ vét để làm giàu cho nước Pháp. Thậm chí, bọn chúng còn đang tâm bắt nhân dân ta phải nhổ lúa trồng đay để lấy nguyên liệu may quần áo phục vụ chiến tranh phát xít, bỏ mặc hơn 2 triệu đồng bào phải phơi xác nơi đầu đường, xó chợ vì đói, rét. Và hình tượng cùng cực đến mức không thể khổ hơn của các nhân vật chị Dậu, Chí Phèo, lão Hạc mà các nhà văn đương thời đã nói lên tất cả giá trị “văn minh” đó.

Rồi thì bom đạn, chất độc da cam, bom napal, những “khu trù mật”, “ấp chiến lược”, những đợt bố ráp, hành quân càn quét “tìm, diệt” của bọn Mỹ, ngụy tay sai; là lối sống thực dụng, hưởng thụ, rượu chè, bài bạc, đĩ điếm, hút chích; là vợ mất chồng, con mất cha, gia đình ly tán do chiến tranh, bom rơi đạn lạc. Những giá trị “văn minh” đó to lớn đến nỗi, đất nước đã được giải phóng gần 45 năm rồi, song cả dân tộc vẫn chưa khắc phục hết những mất mát, đau thương đó. Những công trình cầu cống, đường sắt, nhà ga xe lửa, công trình xây dựng mà thực dân Pháp và đế quốc Mỹ dựng lên ở Việt Nam trước đây cũng không phải vì mục đích tốt đẹp “khai sáng văn minh” cho chúng ta, mà chính là để phục vụ việc tận thu tư bản được thuận tiện, nhanh chóng, là để phục vụ các cuộc chơi thâu đêm suốt sáng của bọn tướng tá, binh lính sau những ngày đánh trận mà thôi.

Thực tế, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, sau những thất bại liên tiếp, không thể cứu vãn tại Việt Nam đã phải cút khỏi nước ta một cách nhục nhã, mất danh dự. Nhưng, với truyền thống yêu chuộng hòa bình, “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại”, nhân dân Việt Nam sẵn sàng khép lại quá khứ, vượt qua bất đồng, hướng tới tương lai để hợp tác với Pháp và Mỹ, vì lợi ích của chính nhân dân mỗi nước. Song, chúng ta không bao giờ quên được tội ác tày trời mà thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã gây ra cho chúng ta trước đây. Đó là những bài học lịch sử được viết bằng máu, là lời cảnh tỉnh để chúng ta không một phút giây nào được lơ là, xao nhãng, mất cảnh giác mà quên đi lời dạy của Lênin “còn chủ nghĩa đế quốc là còn nguy cơ chiến tranh”. Thanh minh, bào chữa cho những tội ác của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã gây ra với đồng bào ta trước đây chính là hành động ngậm máu phun người, vong ân bội nghĩa, đánh đồng sự hy sinh xương máu của bao anh hùng liệt sĩ với hành động xâm lược phi nghĩa, vô nhân đạo của bọn cướp nước và tay sai bán nước hèn nhát. Lên án Việt Nam đánh đuổi những “nền văn minh nhân loại” chính là đang rêu rao, tuyên truyền, cổ xúy cho trào lưu phụ thuộc, bán mình cho ngoại bang mà thôi.

Nếu đã là những “nền văn minh nhân loại”, vậy tại sao bọn thù địch, phản động, hại nước hại dân không qua những xứ đó để dệt ước mơ, để thỏa chí tang bồng mà lại luôn quanh quẩn ở Việt Nam chống phá, chửi bới? Đất nước này, dân tộc này không bao giờ chấp nhận những kẻ phản phúc, vô ơn như thế!

Nhất Huy (Báo Bình Phước)

Kháng Mỹ viện Triều và bảo vệ hòa bình – Chu Ân Lai

Ban biên tập giới thiệu:

Cuộc chiến Triều Tiên còn được gọi là cuộc chiến tranh liên Triều, có nghĩa là chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc Triều Tiên.

Trung Quốc ban đầu không ủng hộ quyết định của Kim Nhật Thành tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng tổ quốc tấn công xuống Nam Triều Tiên để lật đổ Hàn Quốc. TQ đã thay đổi lập trường sau sự thuyết phục của Stalin và Liên Xô.

Tuy nhiên, sự giúp đỡ của TQ cho Triều Tiên chỉ ở cấp độ ngoại giao, tham mưu hiến kế, giúp đỡ lương thảo và giúp vận chuyển vũ khí mà Stalin và Liên Xô đã hứa trang bị đầy đủ cho 10 sư đoàn CHDCND Triều Tiên tham chiến trên chiến trường Nam Triều Tiên.

Trung Quốc lúc này không trực tiếp tham chiến và cũng không viện trợ vũ khí cho Bình Nhưỡng. Đơn giản vì vũ khí của Quân đội nhân dân Triều Tiên sử dụng là những vũ khí mới nhất của Liên Xô, trong khi đó Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc vẫn còn sử dụng những vũ khí cũ kỹ lỗi thời được Liên Xô viện trợ trong Thế Chiến II.

Ở Trung Quốc, không có 1 đề nghị nào để TQ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Nam Triều Tiên. Tuy nhiên, sau khi Hoa Kỳ dẫn đầu lực lượng đa quốc gia của liên quân Liên Hiệp Quốc vượt qua vĩ tuyến 38 đánh lên Bắc Triều Tiên và chiếm đóng thủ đô Bình Nhưỡng, rồi sau đó suốt 2 tháng  (27/8/1950 – 25/10/1950) ném bom và không kích 21 khu vực Trung Quốc gây ra thương vong cho 34 dân thường, trong ekip lãnh đạo Trung Quốc nổi lên 2 trường phái chủ trương “Chiến” hoặc “Hòa”.

Là một người chủ chiến ngay từ đầu, Chu Ân Lai, nhà lãnh đạo lớn gắn liền tên tuổi mình với Mao Trạch Đông, đã viết bài “Kháng Mỹ viện Triều và bảo vệ hòa bình” để kêu gọi, thuyết phục, cổ vũ quyết tâm dẫn quân vào Bắc Triều Tiêu đối chiến với Mỹ và cứu viện Kim Nhật Thành. Bài viết được đăng trên Nhân Dân Nhật Báo, ngày hôm sau được Tân Hoa Xã phát lại. Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả.

 

 

 

Kháng Mỹ viện Triều và bảo vệ hòa bình (24/10/1950)

Cuộc chiến tranh chống xâm lược đã được bắt đầu một cách thành công ở Triều Tiên. Hiện chúng ta đang chứng kiến ​​cả sự dũng cảm của nhân dân Triều Tiên và sự tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc Mỹ.

Kể từ giữa tháng 7, đế quốc Mỹ đã rút lui về phía nam, nhanh chóng tập trung lực lượng của chúng ở khu vực Đại Khưu ở phía nam bán đảo Triều Tiên và cố gắng lôi kéo Quân đội Nhân dân Triều Tiên tấn công họ. Quân đội Nhân dân Triều Tiên mới thành lập đang dũng cảm tiến lên phía trước, quyết tâm đẩy lính Mỹ xuống biển. Tình hình hiện tại cho thấy chiến tranh sẽ còn dài.

Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là một quốc gia mới và Quân đội Nhân dân Triều Tiên là một lực lượng trẻ; chúng ta ấn tượng bởi lòng dũng cảm của họ trong chiến đấu. Lợi dụng ưu thế tạm thời của mình, địch đã bắt tay vào âm mưu.

Ngay bây giờ nhân dân Triều Tiên đang phải đối mặt với những khó khăn, nhưng họ đang can đảm tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng ở Nam Triều Tiên và kháng chiến bảo vệ Bắc Triều Tiên. Cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục, và miễn là họ kiên trì, mới có thể tạo ra nguồn lực để đánh bại kẻ địch.

Bắc Triều Tiên có một lãnh thổ nhỏ và tất cả những gì nó phải dựa vào là 9 triệu dân. Họ phải được khen ngợi vì đã chống lại một địch thủ ghê gớm như vậy với những gì họ có thể tập hợp được và quyết tâm chiến đấu trong một thời gian dài. Chúng ta không thể không bày tỏ sự ngưỡng mộ của chúng ta đối với nhân dân Triều Tiên.

“Vấn đề Triều Tiên” là một vấn đề tầm vóc quốc tế và nó không thể tách rời khỏi các vấn đề quốc tế khác. Khi nhân dân Triều Tiên chiến đấu, cuộc đấu tranh của họ sẽ có tầm ảnh hưởng quốc tế lớn hơn. Trong khi đó, nếu họ muốn giành chiến thắng, họ phải được sự đảm bảo hỗ trợ quốc tế, đặc biệt là trong tình hình họ đang gặp khó khăn. Chúng ta nên đề cao đạo đức cách mạng. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên phải chiến thắng; nếu không, một ngọn lửa sẽ được đưa vào đốt phe hòa bình. Và nếu điều đó xảy ra ở Triều Tiên, nhiều ngọn lửa sẽ liên tiếp được đưa đi những nơi khác.

Nếu địch phá cổng phía đông và đi vào nhà của chúng ta, làm thế nào chúng ta có thể cống hiến hết mình cho công cuộc xây dựng?

Trung Quốc và Triều Tiên là hai quốc gia láng giềng có liên quan mật thiết như môi và răng, môi hở thì răng lạnh. Nếu Quân đội nhân dân Triều Tiên bị khuất phục bởi chủ nghĩa đế quốc Mỹ, sẽ không có an ninh cho vùng đông bắc Trung Quốc.

Một nửa công nghiệp nặng của chúng ta ở Đông Bắc và một nửa công nghiệp nặng ở Đông Bắc nằm ở phía nam, trong phạm vi máy bay ném bom của địch. Chỉ trong hai tháng từ 27 tháng 8 đến hôm qua, máy bay của đế quốc Mỹ đã xâm chiếm không phận của chúng ta 12 lần. Gần đây, họ không chỉ bay qua sông Áp Lục mà đến Khoan Điện trong các nhiệm vụ trinh sát, oanh tạc và ném bom. Nếu đế quốc Mỹ đến gần sông Áp Lục, làm thế nào chúng ta có thể an tâm đi sản xuất?

Để xây dựng lại Trung Quốc, chúng ta cần dành từ ba đến năm năm để khôi phục sản xuất, và đó là những gì chúng ta đang làm. Gần đây, chúng ta đã vạch ra kế hoạch kinh tế cho năm 1951. Theo mong muốn bền bỉ của chúng ta là tăng chi tiêu cho phát triển kinh tế và văn hóa, chi tiêu quân sự đã giảm từ 43% ngân sách năm nay xuống còn 30% của năm tới.

Điều này có nghĩa là 70 phần trăm ngân sách dành cho xây dựng kinh tế và các chủ trương văn hóa và giáo dục, để nâng cao mức sống của nhân viên chính phủ và giáo viên, để mua ngũ cốc dư thừa từ nông dân và mở rộng sản xuất nhu yếu phẩm hàng ngày. Tuy nhiên, địch sẽ không để chúng ta hoàn thành kế hoạch này. Trong một bức thư gần đây gửi Chủ tịch Mao, Henry Wallace bày tỏ hy vọng rằng Trung Quốc sẽ sản xuất máy kéo và không chuyển nguồn lực của mình sang chế tạo xe tăng. Thực tế là địch sẽ không cho phép chúng ta tiến hành xây dựng; chúng ta buộc phải từ bỏ sản xuất máy kéo.

Phòng thủ thụ động sẽ không thể đem lại hiệu quả; Bên cạnh đó, nó sẽ rất tốn kém. Ví dụ, cải tạo một sân bay đòi hỏi tương đương 50.000 tấn kê. Nếu tám cái được cải tạo ở Đông Bắc và ba phía nam của Vạn Lý Trường Thành, sẽ cần hơn 500.000 tấn kê. Hơn nữa, chi tiêu đáng kể cũng sẽ phải được thực hiện cho các cơ sở khác. Sau đó, các nhà máy cũng sẽ phải chuyển đi nơi khác và điều đó sẽ phá vỡ kế hoạch sản xuất công nghiệp của chúng ta.

Về mặt quân sự, bỏ qua vấn đề thiết bị, đó là vấn đề nhân lực. Khi tuyến phòng thủ kéo dài hơn 500 km dọc theo sông Áp Lục, sẽ cần vô số binh lính. Hơn nữa, chúng ta sẽ phải giữ chúng ở đó năm này qua năm khác, không biết khi nào địch có thể xâm chiếm. Trong hoàn cảnh như vậy, làm thế nào chúng ta có thể tập trung vào sản xuất và xây dựng? Bên cạnh đó, nếu địch thành công trong việc đánh bại Quân đội nhân dân Triều Tiên, chúng sẽ không dừng lại ở đó.

Do đó, nếu chúng ta xem xét vị trí mà Quân đội nhân dân Triều Tiên chiếm giữ ở phía Đông và triển vọng tương lai của nó, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc tự lo cho chính chúng ta; và nếu chúng ta xem xét mối quan hệ của hai nước, gần gũi như môi và răng, thì kết luận là như nhau. Chúng ta không mời gọi sự rắc rối này, mà chính là địch đang đốt cháy cửa nhà của chúng ta.

Một tháng trước, đó là trước khi quân đội Mỹ đổ bộ vào Nhân Xuyên, chúng ta tự hỏi liệu đế quốc Mỹ có dừng lại ở vĩ tuyến 38 và sau đó sẽ mở các cuộc đàm phán ngoại giao.

Sau khi họ chiếm giữ Hán Thành, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru nói với chúng ta rằng họ đã đồng ý tại cuộc họp của các bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, Anh và Pháp rằng giải pháp vĩ tuyến 38 sẽ không được thông qua và nếu có, vấn đề sẽ được đưa ra cho một cuộc bỏ phiếu tại Liên Hợp Quốc.

Tuy nhiên, theo thông tin của chúng ta, họ đã cố gắng ru ngủ chúng ta vào một cảm giác an toàn chủ quan sai lầm trong khi thật sự có kế hoạch vượt qua vĩ tuyến 38. Một khi việc vượt biên được thực hiện, họ sẽ có ý định thừa thắng xông lên tấn công Trung Quốc.

Chúng ta đã thấy qua mưu đồ này và do đó tuyên bố vào ngày 30 tháng 9: Chúng ta đã bất lực không thể ngăn chặn được cuộc xâm lược Bắc tiến của đế quốc Mỹ lên Bắc Triều Tiên.

Các công văn hỏa tốc ngày 1 và 2 tháng 10 cho thấy quân đội Hoa Kỳ đã vượt qua vĩ tuyến 38 và quân đội Hàn Quốc đã xâm nhập Bắc Triều Tiên. Chúng ta đã chỉ ra cho đại sứ Ấn Độ tại Trung Quốc rằng những gì thật sự đã xảy ra khác với những gì Nehru đã nói sẽ xảy ra và chúng ta không thể tách rời khỏi vấn đề Triều Tiên.

Chúng ta yêu cầu ông ấy chuyển tin nhắn đó cho Bevin thông qua Nehru. Vài ngày trôi qua, nhưng địch vẫn tiếp tục tiến lên. Ngay sau đó, Bevin chỉ ra cho tôi qua Nehru rằng quân địch, sau khi vượt qua vĩ tuyến 38, sẽ đến để ngăn chặn một khi họ 40 dặm từ sông Áp Lục.

Lúc đó họ đã vào Bình Nhưỡng, và lúc này họ đang tiếp tục lực đẩy về phía Bắc. Rõ ràng là họ đang lừa dối chúng ta một lần nữa. Nếu điều này tiếp diễn, nếu chúng ta ngồi yên mà không đi giải cứu, địch chắc chắn sẽ tiếp tục tiến lên, ngày càng trở nên trắng trợn trong sự hung hăng của mình, cho đến khi bọn chúng đến được sông Áp Lục và sau đó thực hiện bước tiếp theo.

Do đó, chúng ta phải can thiệp. Nhưng bằng cách nào? Một quyết định chính sách phải được đưa ra. Chúng ta đã có những động thái sơ khởi. Ví dụ, chúng ta đã đưa vụ việc lên Liên Hợp Quốc, tố cáo hành động xâm lược. Nhưng điều đó không còn đủ nữa, và một quyết sách mới phải được đưa ra. Chính sách của đế quốc Mỹ là thiết kế một cuộc chiến tranh và dần leo thang nó. Nếu chúng ta cương quyết chống lại và phản công, bọn địch có thể rút lui. Nếu không, chúng chắc chắn sẽ còn tiếp tục tiến lên theo kế hoạch.

Đế quốc Mỹ đang theo đuổi chính sách của MacArthur ở phía Đông, sử dụng Nhật Bản làm căn cứ của họ, kế thừa chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản và lặp lại lịch sử chiến tranh Trung-Nhật năm 1894.

Họ đang theo câu châm ngôn cũ mà bất cứ ai cũng muốn thôn tính Trung Quốc là trước tiên phải chiếm Đông Bắc, và để chiếm Đông Bắc, trước tiên phải chiếm Triều Tiên. Trong khi đế quốc Nhật Bản đã dành 40 năm để hướng tới mục tiêu đó, thì đế quốc Mỹ muốn hoàn thành nó trong bốn hoặc năm năm.

Bài học lịch sử như sau: Khi phải đối mặt với sự xâm lược của đế quốc Nhật Bản, một bên ở Trung Quốc đã chống cự trong khi bên kia là để nhượng bộ. Và các nhượng bộ đã được thực hiện cho đến sự kiện ngày 7/7/1937. Nếu không phải vì cuộc chiến do Đảng Cộng sản Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc phát động, sẽ không có cuộc kháng chiến chống Nhật Bản xâm lược.

Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894 là một loại kháng chiến, nhưng đó là sự kháng cự được phát động và lãnh đạo bởi một giai cấp thống trị và triều đình tham nhũng. Nó không được ủng hộ một cách phổ biến và kết thúc trong thất bại. Nếu là một nhà nước của dân, kết quả hẳn đã khác.

Sẽ là một sai lầm nếu không đề kháng với chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Điều đó sẽ đặt chúng ta vào vị trí thụ động, và kẻ địch sẽ leo thang chiến tranh và chiếm lấy từng li từng tí. Mặt khác, nếu chúng ta kiên trì chống trả và khiến địch bị sa lầy trong vũng lầy Triều Tiên, bọn chúng sẽ không còn có thể tấn công Trung Quốc, và thậm chí kế hoạch đưa quân tới Tây Âu của chúng cũng có thể bị đảo lộn. Trong trường hợp đó, mâu thuẫn nội bộ giữa Hoa Kỳ và các đồng minh sẽ gia tăng.

Nói tóm lại, nếu chúng ta nhượng bộ, nó sẽ chỉ làm giảm bớt mâu thuẫn nội bộ của họ, trong khi nếu chúng ta can thiệp, nó sẽ làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn đó. Chỉ khi chúng ta can thiệp thì tương quan sức mạnh của lực lượng địch và của chính chúng ta mới được thay đổi. Nhưng cách can thiệp trong quá khứ của chúng ta giờ đây đã tỏ ra không hiệu quả: Để có hiệu quả, nó phải được hỗ trợ bằng vũ lực.

Đối với chúng ta, vấn đề Triều Tiên không chỉ đơn thuần là vấn đề của người Triều Tiên. Liên quan đến nó là vấn đề Đài Loan. Với tham vọng chống Trung Quốc, đế quốc Mỹ đã mở rộng tuyến phòng thủ của họ đến Eo biển Đài Loan, đồng thời tuyên bố không xâm lược và can thiệp. Họ đã đem quân xâm chiếm Bắc Triều Tiên mà không cần bất kỳ danh nghĩa chính trị nào. Nếu chúng ta gửi quân đến can thiệp, chúng ta có ngọn cờ chính nghĩa là cần phải tự bảo vệ mình và toàn bộ phe hòa bình.

Đế quốc Mỹ đang cố gắng đe dọa một quốc gia khác bằng vũ lực. Chúng ta nên ngăn chặn nỗ lực đó của chúng và buộc chúng phải rút lui trước khó khăn và đi đến thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược. Sau đó sẽ có thể giải quyết vấn đề.

Chúng ta sẽ kiềm chế. Nếu địch rút lui, vấn đề có thể được giải quyết thông qua đàm phán tại Liên Hợp Quốc hoặc ngoài Liên Hợp Quốc, vì chúng ta muốn hòa bình, không phải chiến tranh.

Triều Tiên nên được quyền giải quyết vấn đề của chính họ, và tất cả quân đội nước ngoài phải rút. Nếu vấn đề Triều Tiên được giải quyết tốt và nếu chủ nghĩa đế quốc Mỹ gặp khó khăn, rất có thể sẽ có một sự thay đổi trong tình hình liên quan đến Eo biển Đài Loan và toàn bộ phương Đông. Chúng ta phải làm việc chăm chỉ cho một sự thay đổi như vậy bằng cách tập hợp những lực lượng trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, có một khả năng khác. Khi chiến tranh leo thang, địch có thể trở nên hiếu chiến hơn và thực hiện một cuộc xâm nhập đất liền, từ đó mở rộng chiến tranh. Rất có thể chúng sẽ bất chấp tất cả cho một động thái như vậy, bởi vì có một số chư hầu của đế quốc Mỹ đang làm hỏng cuộc chiến. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều đó. Chúng ta không muốn thấy chiến tranh mở rộng, nhưng nếu địch muốn mở rộng nó, không gì có thể ngăn cản được tham vọng của chúng.

Nếu thế hệ của chúng ta bị buộc phải trải qua một cuộc Đệ Tam Thế Chiến, chúng ta sẽ phải gặp nó trực tiếp để con cháu của chúng ta có thể tận hưởng hòa bình mãi mãi. Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ kích động một cuộc Thế Chiến. Chúng ta phải làm tất cả những gì có thể để biến khả năng đầu tiên thành hiện thực, để biến hòa bình thành hiện thực. Tuy nhiên, chúng ta phải sẵn sàng đối phó với khả năng thứ hai, để đối phó với một cuộc Thế Chiến khác.

Bây giờ chúng ta đặt vấn đề về sự can thiệp vũ lực của chúng ta, lực lượng của chúng ta có đủ mạnh cho nhiệm vụ này không?

Bộ đội của chúng ta đủ mạnh, nhưng hải quân và không quân của chúng ta không đủ vì chúng ta chỉ mới bắt đầu xây dựng vào mùa xuân năm ngoái.

Sau, chúng ta có nên chờ đợi để gắn kết kháng chiến cho đến khi lực lượng của chúng ta có đủ sức mạnh? Không! Nếu chúng ta làm điều đó, địch sẽ áp đảo Quân đội nhân dân Triều Tiên và trở nên độc đoán hơn, và tương quan lực lượng sẽ còn có lợi hơn cho chúng. Vì vậy, chúng ta phải xem xét vấn đề từ mọi góc độ, có tính đến những khả năng chuyển hóa có thể diễn ra của nó.

Chúng ta phải tăng cường sức mạnh và tiết chế bản thân trong quá trình đấu tranh. Các lực lượng cách mạng đôi khi dường như ở một vị trí thấp hơn, nhưng khi cuộc đấu tranh phát triển sẽ thay đổi. Tất nhiên, sẽ mất thời gian và chúng ta sẽ phải trả giá.

Chúng ta cũng phải chú ý bảo vệ đại lục. Địch có thể đánh bom chúng ta hoặc sử dụng lực lượng không quân của Tưởng Giới Thạch để oanh tạc, hoặc bọn chúng có thể đáp xuống bờ biển của chúng ta và quấy rối chúng ta. Do đó, chúng ta phải tăng cường phòng thủ.

Về mặt chính trị, chúng ta có thể tin tưởng vào sự hỗ trợ của các quốc gia đồng minh và thân thiện khi chúng ta nỗ lực vì hòa bình. Đối với các phương pháp liên quan, chúng ta sẽ cung cấp hỗ trợ của chúng ta dưới hình thức tình nguyện quân để không cần phải tuyên chiến.

Chúng ta nên công khai rộng rãi cho phong trào kháng Mỹ viện Triều và bảo vệ hòa bình. Chúng ta cũng phải đàn áp các đặc vụ của địch gây rối trong nhà ta và củng cố sự đoàn kết trong nhân dân. Đồng thời, xây dựng kinh tế không được đình chỉ.

Chúng ta nên phục hồi các ngành công nghiệp nặng chủ chốt, tiến hành các dự án bảo tồn nước, đường sắt và dệt may, và cố gắng nâng cao mức sống người dân.

Chu Ân Lai

(Chu Ân Lai tuyển tập, Tập II)

Ngũ đại chiến dịch ở Triều Tiên – Bành Đức Hoài

 

Gửi quân chi viện Triều Tiên

Vào trưa ngày 2 tháng 10 năm 1950, ngay sau ngày Quốc khánh, tôi được lệnh đến Bắc Kinh ngay lập tức để tham dự một cuộc họp, không được chậm trễ.

Vào khoảng 4 giờ chiều cùng ngày, tôi đến Trung Nam Hải, Bắc Kinh, nơi cuộc họp của các đồng chí lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước vẫn đang diễn ra. Họ đang thảo luận về vấn đề gửi quân chi viện Triều Tiên.

Tôi được thông báo rằng chủ tịch Mao đã nói: “Những gì tất cả các đồng chí nói là hoàn toàn đúng. Nhưng khi người hàng xóm gặp nguy hiểm, chúng ta không thể đứng sang một bên.”

Đêm đó, tôi không thể ngủ được, nghĩ rằng nếu quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng Bắc Triều Tiên sẽ gây ra mối đe dọa cho Đông Bắc Trung Quốc qua sông Áp Lục. Hơn nữa, họ có thể siết chặt áp chế đối với Đài Loan để đe dọa Thượng Hải và khu vực Hoa Đông.

Nếu Hoa Kỳ muốn phát động một cuộc chiến tranh xâm lược chống Trung Quốc, họ có thể tìm thấy bất kỳ lý do nào ở bất cứ lúc nào. Chúng ta phải chống lại sự xâm lược của Hoa Kỳ. Nếu không, sẽ rất khó để chúng ta thực hiện động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Nếu Hoa Kỳ quyết tâm phát động một cuộc chiến chống Trung Quốc, có lẽ nó sẽ mang lại lợi thế cho quyết định nhanh chóng của mình, nhưng một chiến lược chiến tranh kéo dài sẽ có lợi cho chúng ta.

Hoa Kỳ có thể thích một cuộc chiến thường xuyên, trong khi chúng ta nên áp dụng các chiến thuật mà chúng ta đã thực hành trong cuộc chiến tranh kháng Nhật để đối phó với nó. Ngoài ra, chúng ta đã thiết lập quyền lực nhà nước và được Liên Xô hỗ trợ, điều này cung cấp cho chúng ta nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong thời kỳ chiến tranh kháng Nhật.

Nhằm mục đích xây dựng tương lai của đất nước chúng ta, chúng ta phải gửi quân đội của mình đến Bắc Triều Tiên.

Mọi người đều nói rằng phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu là vượt trội và mạnh hơn nhiều so với phe tư bản. Làm thế nào chúng ta có thể chứng minh sự vượt trội và sức mạnh như vậy nếu chúng ta không gửi quân đội để hỗ trợ Triều Tiên? Tôi đã lặp đi lặp lại những lời của Mao Chủ tịch hàng chục lần với chính mình, và hiểu rằng đây là một sự kết hợp tinh thần của chủ nghĩa ái quốc và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định sáng suốt của đồng chí Mao.

Chiều hôm sau, các đồng chí lãnh đạo hàng đầu đã gặp lại nhau. Tôi nói rằng, chắc chắn là phải gửi quân chi viện Triều Tiên. Nếu quân đội Mỹ được triển khai dọc theo sông Áp Lục và Đài Loan, họ có thể tìm mọi lý do để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược chống lại chúng ta bất cứ lúc nào.

Chiến dịch đầu tiên

Vào lúc hoàng hôn ngày 18/10/1950, tôi băng qua sông Áp Lục cùng với đội tiên phong của Quân Tình nguyện Nhân dân Trung Quốc. Sáng hôm sau, chúng ta đến trạm thủy điện Lagushao.

Vào ngày 21 tháng 10, một sư đoàn của Quân đoàn 40 đã đụng độ với quân địch. Đây là một cuộc chạm trán bất ngờ, vì vậy chúng tôi đã phải thay đổi kế hoạch ban đầu.

Đến ngày 25, chiến dịch đầu tiên của chúng tôi đã đưa quân đội Mỹ, Anh và Hàn Quốc trở lại sông Chung Chun và khu vực Dechuan, nơi họ thiết lập một hệ thống phòng thủ với các đơn vị xe tăng của họ.

Chúng tôi không truy đuổi chúng, vì chúng tôi chưa tiêu diệt được lực lượng chính của địch. Chúng tôi chỉ tiêu diệt được 6 hoặc 7 tiểu đoàn. Quân địch di chuyển nhanh chóng, được hỗ trợ bởi các sư đoàn thiết giáp. Và họ cũng đã xây dựng các công trình phòng thủ một cách nhanh chóng. Với thiết bị và công nghệ hiện có của chúng ta, sẽ không tốt cho chúng ta khi tiến hành chiến tranh theo vị trí chống lại địch.

Chiến dịch thứ hai

Chúng tôi đã thăm dò địch bằng các đơn vị nhỏ, và sử dụng địa hình thuận lợi để xây dựng các vị trí tấn công ẩn giấu trong khu vực, cách địch khoảng 30 km. Khi chúng phát động một cuộc tấn công lớn, chúng tôi sẽ đẩy lùi chúng từng bước với các đơn vị nhỏ sử dụng lựu đạn và lưỡi lê để chống lại sự vượt trội về sức mạnh hỏa lực của địch.

Mô hình chiến đấu này chưa từng được địch biết đến trước đây. Vì vậy, nó có tác dụng của một cuộc tấn công bất ngờ. Và đó là chiến thuật chính xác để chúng ta giành chiến thắng trong chiến dịch thứ hai.

Một ngày giữa tháng 11, Tướng Douglas MacArthur của Hoa Kỳ đã thực hiện một chuyến kiểm tra bằng máy bay qua chiến trường. Ông ta phát lệnh cho quân đội của mình: Tăng cường chuẩn bị chiến đấu về phía sông Áp Lục và trở về nhà vào dịp lễ Giáng sinh.

Vào khoảng ngày 20 của tháng, cuộc tấn công của địch bắt đầu. Vào lúc chập tối, địch đã tiếp cận khu vực từ nơi chúng ta dự định tiến hành cuộc phản công. Trong trận chiến tiếp theo, chúng ta đã giành được tổng cộng hơn 6000 xe thiết giáp địch và khoảng 1000 xe tăng và đại bác.

Nhưng chúng chủ yếu bị phá hủy sau đó bởi bom napalm địch thả xuống. Địch đã chạy trốn trong các tòa nhà ở mọi hướng và bỏ chạy khỏi Bình Nhưỡng, rút ​​về vĩ tuyến 38. Chiến dịch này đặt nền tảng cho chiến thắng trong chiến tranh kháng Mỹ viện Triều và lấy lại toàn bộ lãnh thổ đã mất của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Chiến dịch thứ ba

Sau khi giành chiến thắng trong chiến dịch thứ hai, Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc đã truy đuổi địch trong đại thắng. Đến giữa tháng 12, chúng tôi đã bí mật tiến về phía trước gần với vĩ tuyến 38. Sau khi trinh sát địch tình cẩn thận, Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc đã chuẩn bị cho các cuộc tấn công khác nhau.

Vào đêm giao thừa năm 1951, chúng tôi đã vượt qua vĩ tuyến 38 và chiếm lấy Hán Thành. Chúng tôi đã giải phóng cảng Nhân Xuyên và đẩy quân địch trở lại vĩ tuyến 37. Địch đã thay đổi kế hoạch hoạt động của chúng, có khoảng 4 sư đoàn viện binh mới từ Nhật Bản và Hoa Kỳ, tập trung chúng trên sông La Đông, và xây dựng một tuyến phòng thủ.

Họ cũng gọi lại các lão binh kỳ cựu từ châu Âu để bổ sung cho các lực lượng này. Quân đội sơ tán từ tiền tuyến phía đông cũng tập trung trên sông La Đông. Lực lượng cơ giới của họ rút lui với tốc độ 30 km mỗi ngày, tương đương với tốc độ hành quân của Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc vào ban đêm.

Nói một cách dễ hiểu, địch đã cố gắng lôi kéo lực lượng của chúng ta tấn công các cơ sở của chúng để tiêu hao sức mạnh và sức mạnh của chúng ta. Sau đó, họ sẽ tiến hành một cuộc phản công ở phía trước và hạ cánh trên sườn của chúng ta, trong nỗ lực cắt đứt đường lui của chúng ta.

Sau khi trải qua ba chiến dịch lớn liên tiếp trong mùa đông khắc nghiệt trong vòng ba tháng, Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc trở nên vô cùng mệt mỏi. Ngoài ra, họ đã chiến đấu mà không có sự yểm hộ của không quân và không được dừng lại để nghỉ ngơi.

Con số thương vong là gần 50 phần trăm. Ba đội quân đã vượt sông Hán, tiến đến vĩ tuyến 37. Nhưng lực lượng chính vẫn ở phía bắc của dòng sông, dọc theo vĩ tuyến 38. Họ đang xây dựng các công trình quốc phòng như một sự chuẩn bị cho chiến tranh trường kỳ.

Chiến dịch thứ tư

Địch ở sông La Đông đã phát động một cuộc phản công vào cuối tháng 1. Chúng tôi tập trung 5 đơn vị để đối phó với chúng. Trong chiến dịch, chúng tôi đã tiêu diệt khoảng hai sư đoàn địch.

Từ tháng 2 đến tháng 3 năm 1951, tôi đã dành nhiều ngày ở Bắc Kinh và báo cáo với Chủ tịch Mao về tình hình chiến tranh ở Triều Tiên và xin chỉ thị về chiến lược hoạt động. Tôi giải thích với ông ta rằng chúng ta không thể chiến thắng theo cách “tốc chiến tốc quyết” và phải sơ tán khỏi Quân đoàn 50 từ phía nam sông Hán trước ngày 15 tháng 2.

Chiến dịch thứ năm

Khi địch thất bại trong việc lôi kéo quân đội của chúng ta tấn công các vị trí của chúng trên sông La Đông, chúng đã phát động một cuộc tấn công lớn về phía bắc vào giữa tháng hai.

Chúng tôi áp dụng chiến thuật đẩy lùi từng bước. Sau khoảng 40 ngày chiến đấu gian khổ, địch đẩy về vĩ tuyến 38. Nhưng chúng tôi đã tổ chức một cuộc phản công ở mặt trận phía tây, đẩy quân địch lại gần Hán Thành. Đây là giai đoạn đầu tiên của chiến dịch thứ năm.

Tuy nhiên, chúng ta không thể đánh bật địch từ Hán Thành hoặc vĩ tuyến 38. Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc và một bộ phận của Quân đội Nhân dân Triều Tiên đã thực hiện một cú hích chung trên tiền tuyến phía Đông, tiến tới vĩ tuyến 37. Nhưng vì hậu cần của chúng tôi không đủ để hỗ trợ, quân ta đã phải rút.

Sư đoàn 60 đã hy sinh 3 ngàn người vì họ không rút kịp. Đây là giai đoạn thứ hai của chiến dịch thứ năm.

Chiến dịch thứ năm là một chiến dịch quy mô lớn, liên quan đến hơn 1 triệu chiến binh mỗi phía.

Thông thường, chúng tôi sẽ mất hai ngày để bao vây và tiêu diệt một trung đoàn của lực lượng bộ binh Hoa Kỳ, đơn giản vì quân đội của chúng tôi được trang bị kém và địch có thể lao vào giải cứu với sự hỗ trợ của lực lượng không quân và cơ giới.

Chúng tôi đã tiêu diệt hoàn toàn một trung đoàn Hoa Kỳ chỉ một lần trong chiến dịch thứ hai, và chúng tôi cũng đã tiêu diệt nhiều tiểu đoàn.

Chủ tịch Mao đã gửi cho tôi một bức điện tín, trong đó đồng chí chỉ thị rằng chúng ta không nên tấn công địch bằng các cuộc tấn công quy mô lớn mà phải tiêu diệt chúng từng phần một.

Vào thời điểm đó, chúng tôi đã chuyển từ chiến tranh phòng thủ mặt đất sang chiến tranh phòng thủ hầm ngầm. Theo mô hình hoạt động, chúng tôi tiếp tục xây dựng các đường hầm lắp đặt sâu dưới lòng đất dọc theo vĩ tuyến 38. Địch không thể chiếm lấy vị trí của chúng ta vì việc lắp đặt đường hầm của chúng ta đã được củng cố và đủ mạnh để được bảo vệ thành công.

Từ đó, chúng tôi dàn dựng các cuộc tấn công chống lại các vị trí của địch. Cuộc tấn công cuối cùng được tiến hành vào đêm trước khi ngừng bắn (một đêm cuối tháng 7 năm 1953). Đêm đó, chúng tôi đã phá vỡ các công trình đường hầm sâu và rộng 25 km của địch, tiêu diệt phần lớn bốn tiểu đoàn địch và một trung đoàn pháo binh hạng nặng. Điều này cho thấy sự kết hợp của các phẩm chất chính trị và quân sự tốt của quân đội cách mạng, tạo điều kiện thuận lợi nhất để chiến đấu trong trạng thái chiến tranh kéo dài.

Sau khi chúng tôi giành chiến thắng, tổng chỉ huy lực lượng Liên Hợp Quốc, Tướng Clark, nói: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ, một vị tướng Mỹ ký tên vào một hiệp định ngừng bắn về một cuộc chiến không có chiến thắng.”

Tôi đã suy nghĩ vào lúc này khi tôi ký tên của mình rằng chúng ta vừa hoàn thành việc chuẩn bị cho các hoạt động tiếp theo. Có vẻ đáng tiếc rằng chúng ta đã không sử dụng điều kiện thuận lợi này để giáng một đòn nặng hơn vào địch.

Chúng ta đã có được kinh nghiệm phong phú trong chiến tranh kháng Mỹ viện Triều trong lĩnh vực hậu cần mà không cần bảo vệ trên không và trong chiến tranh chống lại vũ khí sinh học.

Trên chiến trường Triều Tiên, Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc và Quân đội nhân dân Triều Tiên đã kề vai sát cánh và hỗ trợ nhau như huynh đệ. Kết quả của cuộc đấu tranh chung kéo dài ba năm, tình bạn chiến binh gắn bó huyết thống giữa Quân tình nguyện nhân dân Trung Quốc và Quân đội nhân dân Triều Tiên, và giữa các dân tộc Trung Quốc và Triều Tiên, sẽ càng được củng cố, và tình cảm của chủ nghĩa quốc tế mà cả hai trân trọng sẽ được phát triển lên tầm cao mới.

Bành Đức Hoài

(CIIC 10/30/2000)

Toàn cảnh Chiến tranh Triều Tiên

Chiến tranh Triều Tiên diễn ra từ năm 1950 đến 1953, là cuộc chiến tranh giữa Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên, ngoài ra còn được hỗ trợ bởi lực lượng vũ trang của một số quốc gia chư hầu do Mỹ chỉ huy. Trung Quốc còn được Liên Xô hỗ trợ không quân một cách hạn chế.

Cuộc chiến tranh bắt đầu từ ngày 25/6/1950. Chiến sự chấm dứt vào ngày 27/7/1953. Hơn hai triệu dân thường Triều Tiên đã chết, hầu hết trong số họ ở phía Bắc. Hai phía đều quy trách nhiệm cho nhau về việc ai gây chiến trước.

Chiến tranh kết thúc năm 1953. Ngày nay, Hoa Kỳ vẫn giữ 3 vạn quân ở Hàn Quốc. Bắc và Nam Triều Tiên bị phân chia bởi Khu phi quân sự Triều Tiên ở vĩ tuyến 38.

Chiến tranh Triều Tiên xảy ra từ 2 yếu tố mâu thuẫn xung đột. Một là sự xung đột giữa trục Mỹ và Nga – Trung, mà ở thời điểm Liên Xô còn tồn tại đã thể hiện ra ở hình thức “chiến tranh lạnh”. Hai là sự xung đột giữa những phe phái vùng miền Triều Tiên vốn đã có tiền lệ từ lịch sử phong kiến Triều Tiên.

Vì lý do chính trị, chiến tranh Triều Tiên đã trở thành cuộc chiến bị lãng quên trong giới truyền thông chủ lưu ở Hoa Kỳ và truyền thông chính thống Trung Quốc.

Tại Hoa Kỳ, một bộ phận lớn trong giới truyền thông chủ lưu đã gọi tên cuộc chiến bằng danh từ The Forgotten War (Cuộc chiến tranh bị lãng quên).

Tại Trung Quốc, chế độ chính trị muốn “quên đi” cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều (cách truyền thông Trung Quốc gọi Chiến tranh Triều Tiên), vì đây là công lớn của nguyên soái Tổng tư lệnh Bành Đức Hoài.

Năm 1959, Trung Quốc đã ngưng việc tuyên truyền chiến thắng vang dội trong chiến tranh kháng Mỹ viện Triều trong cuộc mâu thuẫn quyền lực và bất đồng quan điểm giữa đại nguyên soái Bành Đức Hoài với chủ tịch Mao Trạch Đông và phần lớn Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Sau Hội nghị Lư Sơn năm 1959, chiến thắng quân sự của Trung Quốc ở Bắc Triều Tiên, đi kèm với chiến công của Tổng tư lệnh Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều Tiên đã trở thành một đề tài nhạy cảm và có tính chất cấm kỵ trong giới truyền thông nước này.

Tương quan lực lượng

Phía Bắc, cuộc chiến tranh do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, thống soái Bành Đức Hoài làm Tổng tư lệnh chỉ huy toàn quân, gần 1 triệu rưỡi quân Trung Quốc, còn có sự hỗ trợ y tế từ Hungary, Romania, Tiệp Khắc, Bulgaria và Ba Lan. Ngoài ra còn những hỗ trợ khác đến từ Mông Cổ và Ấn Độ.

Ban đầu, 27 vạn quân Trung Quốc tiến vào Bắc Triều Tiên để cứu viện Kim Nhật Thành (Kim Il-sung) trước nguy cơ sụp đổ, một nhà độc tài cũng theo chủ nghĩa Cộng Sản, trong khi quân Kim đã bị vỡ trận và Bắc Triều Tiên đang bị hơn 30 vạn quân Mỹ tràn ngập lãnh thổ.

Phía Nam, cuộc chiến tranh được Hoa Kỳ lãnh đạo, thống tướng Douglas MacArthur làm Tổng tư lệnh chỉ huy toàn quân, ban đầu đưa khoảng 15 vạn quân vào Nam Triều Tiên để cứu viện Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee), một nhà độc tài theo chủ nghĩa dân túy.

Về sau, quân lực Hoa Kỳ tăng cường viện binh từ Nhật và đảo Guam, lên đến 30 vạn quân, xâm lược lên phía Bắc để lật đổ chế độ chính trị ở Bình Nhưỡng, và đã thật sự chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng, giành quyền kiểm soát hầu hết lãnh thổ Bắc Triều Tiên.

Quân đội Hoa Kỳ dẫn đầu liên quân đa quốc gia với 21 lực lượng quân sự, bao gồm Hàn Quốc, tham chiến trên danh nghĩa của Liên Hiệp Quốc và chỉ huy cuộc chiến thông qua Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Quốc, ngoài ra còn được 39 quốc gia trong Liên Hiệp Quốc giúp sức, trong đó có 12 quốc gia hỗ trợ trực tiếp về quân sự.

Quân đội Triều Tiên có khoảng hơn 30 vạn quân, quân đội Hàn Quốc có gần 60 vạn quân nhưng chỉ có một bộ phận nhỏ trước đây đã từng là thuộc hạ của tướng quân Kim Cửu, từng đánh Nhật và được Quốc dân đảng huấn luyện ở Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc) là thiện chiến và có kinh nghiệm chiến tranh, đại bộ phận còn lại đều là dân quân được chiêu mộ và tân binh mới nhập ngũ, hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến trường.

Trong cuộc chiến giữa quân đội Triều Tiên và quân đội Hàn Quốc ở giai đoạn đầu chiến tranh Triều Tiên, kéo dài 1 tháng, quân đội Hàn Quốc đông hơn gấp đôi nhưng chỉ có một thành phần nhỏ là biết đánh trận, trong khi quân Triều Tiên toàn bộ đều là những chiến binh nhà nghề, những binh tướng và sĩ quan thân trải trăm trận trên khắp các chiến trường chống phát xít ở Liên Xô và Trung Quốc, được huấn luyện ở các học viện quân sự danh giá ở hai nước này.

Ngoài ra, quân đội Triều Tiên còn có vũ khí và hỏa lực vượt trội hơn hẳn nhờ Liên Xô viện trợ. Quân đội Triều Tiên được trang bị đầy đủ những vũ khí mới nhất của Liên Xô, trong khi quân đội Hàn Quốc chỉ có những vũ khí cũ kỹ mà Mỹ đã bỏ không dùng nữa từ sau Thế Chiến II.

Trong cuộc chiến giữa quân đội Trung Quốc và quân đội Hoa Kỳ ở giai đoạn chính của chiến tranh Triều Tiên, kéo dài 3 năm từ 1950 đến 1953, quân đội Trung Quốc vừa tinh nhuệ, tràn đầy lý tưởng chiến đấu với lòng dũng cảm, vừa đông hơn gấp bội, nhưng họ phải chiến đấu với những vũ khí lạc hậu quen tay, ngoài các loại vũ khí hiện đại hơn của Mỹ mà họ giành được từ tay quân đội Quốc dân đảng nhưng sử dụng không quen, do đặc tính vũ khí khác biệt giữa 2 dòng vũ khí Nga – Mỹ.

Ở phía bên kia, chỉ có quân đội Mỹ, bộ phận tử thủ Phú Sơn của Hàn Quốc, và một bộ phận viện binh Pháp được Pháp chi viện cho Mỹ từ chiến trường Việt Nam và Đông Dương, là tinh nhuệ thiện chiến, còn lại đều là những lực lượng thiếu kinh nghiệm, tác chiến kém và chủ yếu làm nhiệm vụ phòng thủ.

Đến cuối cuộc chiến, quân đội Hoa Kỳ đã phái đi 1/3 quân đội của họ, 1/5 lực lượng không quân và gần một nửa lực lượng hải quân, trong khi Trung Quốc đã gửi 19 sư đoàn và nhiều đơn vị bộ đội, với gần 1 triệu rưỡi binh lính.

Tên gọi cuộc chiến

Trong các cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành, như chiến tranh Việt Nam (Vietnam War), chiến tranh Iraq (Iraq War), chiến tranh Afghanistan (Afghanistan War), hay chiến tranh có liên quan nhiều tới Mỹ, như Chiến tranh Thế giới (World War), chiến tranh Đông Dương (Indochina War) thì đều được gọi tên theo ngôi thứ nhất của Mỹ, theo mô-típ quân đội Mỹ tiến hành chiến tranh ở đâu thì lấy địa danh ở đó gọi tên cuộc chiến.

Theo đó, khi nói chiến tranh Việt Nam, thì người đọc có thể hiểu được là địa điểm cuộc chiến tranh Việt Nam.

Dưới tầm ảnh hưởng bao quát của truyền thông chủ lưu Mỹ, phần lớn quốc tế cũng gọi tên các cuộc chiến tranh của Mỹ theo ngôi thứ nhất của Mỹ.

Trong khi đó, chiến tranh Triều Tiên lại được người Mỹ và phần lớn quốc tế gọi là cuộc chiến tranh của người Triều Tiên (Korean War), thay vì chiến tranh ở Triều Tiên (Korea War), theo một mô-típ khác biệt và không có tiền lệ.

Nguyên nhân có sự ngoại lệ này là vì cuộc chiến tranh này được bắt đầu từ người Triều Tiên, sau đó quân đội Mỹ tiến hành chiến tranh trên danh nghĩa của Liên Hiệp Quốc, và điều hành cuộc chiến thông qua Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc ký kết hiệp định ngưng chiến năm 1953 ở Bàn Môn Điếm, về mặt kỹ thuật và pháp lý, cũng là ký với Liên Hiệp Quốc. Theo đó, các lực lượng Mỹ và chư hầu, về hình thức pháp lý, chỉ là một thực thể quân sự của lực lượng quân đội Liên Hiệp Quốc tham chiến “bảo vệ hòa bình” ở Triều Tiên.

Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên đều gọi tên cuộc chiến theo ngôi thứ nhất của mình: Chiến tranh kháng Mỹ viện TriềuChiến tranh giải phóng tổ quốc.

Lịch sử cổ đại và trung đại Triều Tiên

Lịch sử Cao Ly (Korea) kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ đến nay. Sau sự sụp đổ của Cổ Triều Tiên, Triều Tiên bước vào thời kỳ phân tranh quyền lực mà đỉnh điểm là thời Tam Quốc tranh hùng gồm 3 nước Cao Câu Ly (Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) kéo dài từ năm 57 trước công nguyên (TCN) đến năm 668 sau công nguyên (SCN).

Đến năm 676, Tân La thống nhất hầu hết bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, phản thần ly khai của nhà Cao Câu Ly thành lập vương quốc Bột Hải ở phía Bắc bán đảo Triều Tiên vào năm 698.

Năm 926, Bột Hải bị người Khiết Đan ở phía Bắc Trung Hoa thôn tính; Triều Tiên lại rơi vào thời kỳ phân tranh Hậu Tam Quốc (892–935) với 3 triều đình Hậu Cao Câu Ly, Tân La, Hậu Bách Tế.

Nhà Cao Ly (918-1392) chấm dứt tình trạng phân chia bán đảo Triều Tiên kéo dài gần 1000 năm sau công cuộc giành vương quyền Hậu Cao Câu Ly và thôn tính Tân La, Hậu Bách Tế.

Năm 1231 – 1273 xảy ra chiến tranh Mông Cổ – Cao Ly (lúc này Mông Cổ chưa thôn tính xong hết Trung Hoa Đại Lục và chưa thành lập nhà Nguyên), cuộc chiến bao gồm 6 chiến dịch lớn của quân Mông Cổ gây thiệt hại nặng nề cho bán đảo Triều Tiên.

Cao Ly xin hàng, phải ký hiệp ước bất bình đẳng, cống nạp vàng bạc châu báu và tài nguyên, lao động trẻ em, nữ nô, và thợ thủ công để làm nô lệ cho đế chế Mông Cổ, phải cho các con cháu quý tộc, các công chúa, hoàng tử sang Mông Cổ làm con tin, và đồng thời trở thành một chư hầu, phiên thuộc của Mông Cổ trong gần 1 thế kỷ sau.

Năm 1392, Cao Ly sụp đổ và được thay thế bởi nhà Triều Tiên (1392–1897) và sau đó là Đế quốc Đại Hàn (1897–1910) trước khi bị người Nhật thôn tính vào năm 1910.

Lịch sử cận đại và hiện đại Triều Tiên

Triều Tiên dưới ách cai trị của đế quốc Nhật từ năm 1910. Người Nhật gọi Triều Tiên là ngoại địa và Nhật Bản là nội địa, có nhiệm vụ “khai phóng” Triều Tiên trong chính sách “Phồn vinh châu Á”. Chính sách cai trị của Nhật được chia thành 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất từ năm 1910 đến 1919 cốt “thuần hóa” nhân dân Triều Tiên, bình định bán đảo Triều Tiên. Giai đoạn hai từ năm 1920 đến 1931 là giai đoạn dung hòa, mị dân, ôn tồn phủ dụ, nới rộng sự kiểm soát, phát triển văn hóa, giáo dục. Giai đoạn ba, từ 1931 đến 1945 phát triển kỹ nghệ và Nhật hóa.

Trong thời kỳ bị đế quốc Nhật Bản thống trị, người Triều Tiên vùng lên chống lại rất nhiều lần và hình thành nhiều thế lực chính trị khác nhau. Tuy nhiên, không có phong trào nào, lực lượng nào gây ấn tượng, thậm chí họ không có lực lượng vũ trang và vì vậy không thể hoạt động dưới sự bố ráp, ruồng bố của quân phiệt Nhật, khiến họ đành phải hoạt động ở Trung Quốc và hải ngoại. Đến năm 1939, tất cả thế lực chống Nhật đều bị tận diệt hoặc phải lưu vong ngoại quốc, không còn thế lực nào hoạt động trong nước.

Mãi về sau mới có 3 lực lượng quân sự được tổ chức:

Chí nguyện quân (Triều Tiên Chí nguyện quân, Quân Tình nguyện Triều Tiên), do hai tướng Kim Tu-bong (Kim Đấu Phụng) và Mu Chong thành lập ở “thánh địa cộng sản” Diên An, Trung Quốc vào năm 1939, sau này Kim Nhật Thành vào thanh trừng Mu Chong và giành lấy quyền lãnh đạo. Đội quân này chỉ có vài trăm du kích cộng sản nhưng đến năm 1945 đã phát triển lên 1000 quân. Thành phần nòng cốt của Quân Chí nguyện Triều Tiên bao gồm người Mãn Châu, người Hoa gốc Triều Tiên, người Triều Tiên gốc Hoa.

Lực lượng này có quan hệ thân cận với lực lượng cách mạng Trung Quốc, bản thân của nó cũng xuất thân và tách riêng ra từ Hồng quân Trung Hoa. Họ đã từng chiến đấu bên cạnh hàng ngũ Hồng quân Trung Hoa với tư cách là đơn vị hải ngoại. Thực tế, vai trò và cung cách hoạt động của nó không khác nhiều với Tân Tứ quân, Bát Lộ quân của Trung Quốc.

Chủ trương, đường lối hành động của Quân Chí nguyện Triều Tiên là bám sát với chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Trung Quốc, nghiêng theo hướng đấu tranh giai cấp với mục tiêu đánh đuổi đế quốc và xây dựng một xã hội Triều Tiên mới, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đối tượng đấu tranh là chủ nghĩa đế quốc Nhật, địa chủ, phong kiến, tài phiệt, tư sản mại bản. Quân Chí nguyện Triều Tiên theo đường lối chính trị của Mao Trạch Đông và lấy chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao Trạch Đông làm nền tảng tư tưởng.

Tổ chức này kết nạp người khắt khe nhất trong 3 lực lượng chống Nhật của Triều Tiên, nhằm bảo đảm sự trung thành với giai cấp, quan điểm giai cấp phải rõ ràng và mạnh mẽ. Thành phần cốt cán bao gồm những tầng lớp thợ thuyền, công nhân, bần nông, trung nông, với sự giúp đỡ của nhiều phú nông yêu nước.

Giải phóng quân (Triều Tiên giải phóng quân), do lãnh tụ Kim Gu (Kim Cửu) thành lập ở Trùng Khánh, Trung Quốc vào ngày 17 tháng 9 năm 1941, dưới sự thống lĩnh của các tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk (người hùng của trận chiến 6 ngày Qingshanli đánh Nhật). Lực lượng này tuyên chiến với phát xít Đức và Nhật. Sau này tướng Kim Won-bong dẫn Nghĩa Liệt Đoàn gia nhập Quân Giải phóng Triều Tiên, lực lượng được tăng cường mấy trăm tay súng.

Quân giải phóng Triều Tiên theo đường lối chính trị của Tôn Trung Sơn (Tôn Dật Tiên) và lấy chủ nghĩa Tam Dân của ông làm tư tưởng chính. Tổ chức này chủ trương hài hòa trung lập giữa cộng sản – tư sản, lấy phản đế (chống đế quốc), phản phong (chống phong kiến) làm động lực đấu tranh. Họ trung thành với quan điểm xuyên suốt nhất quán của Tôn Trung Sơn là: “Để cách mạng thành công thì phải liên Nga, liên Cộng, phù trợ công – nông!”.

Thành phần nòng cốt của lực lượng này bao gồm các tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, được tầng lớp địa chủ yêu nước trong Trung Hoa Quốc dân đảng và những địa chủ yêu nước ở Mãn Châu, Trung Quốc và Triều Tiên ủng hộ, hỗ trợ.

Trên thực tế, chủ trương đường lối của Quân giải phóng Triều Tiên rất tương đồng với Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở Việt Nam, không phân biệt xuất thân, giai cấp, đảng phái, xu hướng chính trị, chỉ cần có cùng một mục tiêu chống kẻ thù chung là thực dân đế quốc đều được gia nhập.

Chiến tranh Triều Tiên

Giải phóng quân Triều Tiên, một lực lượng quân đội ái quốc, chiến đấu vì mục tiêu giải phóng dân tộc.

Quang phục quân (Triều Tiên quang phục quân, Đại Hàn quang phục quân), được thành lập năm 1941 ở Trùng Khánh, Trung Quốc, là lực lượng tư sản cực đoan tách riêng ra từ Giải phóng quân, do không đồng lòng với chủ trương và chính sách liên Cộng của Kim Cửu và Tôn Trung Sơn. Quang phục quân về sau chuyển sang hoạt động tích cực ở Nam Kinh, TQ.

Lực lượng này tuyên chiến với phe Trục trong Thế Chiến II và theo đường lối chính trị của Tưởng Giới Thạch, chủ trương phản đế (chống đế quốc), đả cộng (đánh cộng sản), bài phong (bài trừ phong kiến), tuyên bố “vừa chống chủ nghĩa đế quốc, vừa chống chủ nghĩa cộng sản”.

Họ chiêu nạp những thành phần có thù với Nhật và Cộng Sản, giai cấp tư sản, tiểu tư sản và tư sản mại bản, bao gồm những lực lượng hắc bang và quân phiệt ở Mãn Châu, Trung Quốc và khu vực biên giới Trung – Triều quanh sông Áp Lục. Lực lượng này được các thế lực tài phiệt ngân hàng trong Trung Hoa Quốc dân đảng chống lưng, nâng đỡ và hỗ trợ tài chính. Lý luận chính trị của tổ chức này được xào nấu kết hợp từ nhiều lý thuyết, học thuyết và trường phái tư tưởng khác nhau, họ không có tư tưởng chính thức và không theo một chủ nghĩa chính trị cố định.

Năm 1945, Quân giải phóng Triều Tiên do được sự ủng hộ rộng rãi và dễ dãi trong việc tuyển mộ binh sĩ, đã phát triển thành lực lượng đông quân nhất, lên đến gần 7000 tay súng. Trong khi đó Triều Tiên Chí nguyện quân chỉ có khoảng 1000 quân. Còn Quang phục quân ít được ủng hộ hơn trong quần chúng, nên chỉ quy tụ được 500 tay súng.

Sau khi phe Trục thua trong Thế Chiến II, Kim Cửu, với tư cách là thủ lĩnh tối cao của Giải phóng quân, vội kéo quân từ Trùng Khánh (TQ) về nước tham gia giải phóng và tranh thủ quyền lực trước khi quân Đồng minh kéo vào giải giáp quân Nhật, nhưng không kịp.

Sau khi Liên Xô và Hoa Kỳ giải phóng bán đảo Triều Tiên, các phe phái quyền lực chính trị trong nước thân Liên Xô và thân Hoa Kỳ đều được những hỗ trợ nhất định, quân Giải phóng Triều Tiên đứng bơ vơ ở giữa và bị cả hai phe thân Liên Xô ở Bắc Triều Tiên và phe thân Mỹ ở Nam Triều Tiên công kích hoặc lôi kéo.

Từ đó đưa tới sự chia rẽ nội bộ sâu sắc và phân rã trong hàng ngũ nội bộ quân Giải phóng. Các thủ lĩnh, tướng lĩnh, người thì đi vào Nam theo Lý Thừa Vãn, người thì quay về Trung Quốc tìm đến Diên An và Mãn Châu để xin gia nhập vào Triều Tiên chí nguyện quân của Kim Nhật Thành.

Tiến sĩ Lý Thừa Vãn là một trí thức có tên tuổi ở Nam Triều Tiên, đã từng đấu tranh giành độc lập theo đường lối cải lương của Gandhi ở Ấn Độ. Lý đã xây dựng được một đội ngũ chính trị nhất định để bao quanh mình.

Là một chính khách lão thành, già dặn lão luyện, Lý ra sức chiêu hiền đãi sĩ, hai tướng Ji Cheong-cheon, Lee Bum-suk theo Lý Thừa Vãn và được trọng dụng, ưu đãi. Lee Bum-suk sau này là Thủ tướng trong Chính phủ đầu tiên của nước Đại Hàn Dân Quốc. Kim Cửu cũng vào hoạt động chính trị ở Nam Triều Tiên, nhưng không theo Lý Thừa Vãn mà là tranh quyền với ông ta, công khai phê phán, chỉ trích ông ta nhiều lần.

Khi viễn cảnh và triển vọng một Triều Tiên độc lập khỏi sự nô dịch của Nhật và thống nhất đất nước đã hình thành, thì Kim Cửu đã dẫn một phái đoàn gồm những nhà hoạt động trung lập và thân Cộng có danh tiếng ở Nam Triều Tiên, lặn lội đến Bình Nhưỡng xin gặp Kim Nhật Thành (lúc này đã đem toàn bộ lực lượng trở về nước) để bàn việc thống nhất bán đảo Triều Tiên, thuyết phục Kim khoan việc tính chuyện lập quốc ở Bắc Triều Tiên và chấp nhận tổng tuyển cử tự do với địa điểm ở Nam Triều Tiên, Kim Nhật Thành bác bỏ và hai bên to tiếng tranh luận một trận.

Kim Cửu chán nản trở về Nam Triều Tiên. Sau khi thất bại trong nhiệm vụ “du thuyết” trở về, Kim Cửu bị Lý Thừa Vãn lợi dụng thêm một lần nữa trong cuộc bầu cử. Một năm sau, năm 1949, Lý Thừa Vãn cho cảnh sát mật thủ tiêu Kim Cửu.

Kim Cửu là một thủ lĩnh quân sự có tài, là nhà dân tộc chủ nghĩa ngay thẳng, chính trực, và ngày nay vẫn được Hàn Quốc ca tụng, xây tượng để tôn vinh. CHDCND Triều Tiên tuy coi ông là một người theo chủ nghĩa sô-vanh, chủ nghĩa dân tộc cải lương, nhưng cũng rất kính trọng ông và dành cho ông những dòng trang trọng trong sách vở, truyền thông chính thống.

Tướng Kim Won-bong, phó tư lệnh Quân Giải phóng Triều Tiên, không theo Kim Cửu về Nam, mà ở lại theo Kim Nhật Thành. Tuy nhiên, ông bị Kim Nhật Thành nghi ngờ và thanh trừng vào năm 1958, sau đó ông tự sát.

Chiến tranh Triều Tiên

Biểu tượng của tư tưởng Chủ thể.

Ngày 15/8/1948, ở Nam Triều Tiên, nhà chính trị lão thành Lý Thừa Vãn tuyên bố lập quốc, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc.

Khoảng nửa tháng sau, ở Bắc Triều Tiên, viên tướng trẻ Kim Nhật Thành cũng tuyên bố lập quốc vào ngày 9/9/1948, thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, theo chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Kim Nhật Thành và thuyết Chủ thể (Juche), một học thuyết do Kim Nhật Thành và các lý luận gia của CHDCND Triều Tiên nghiên cứu và phát triển, mang nhiều yếu tố của tư tưởng truyền thống Triều Tiên và tinh thần tự lực cánh sinh.

Tên gọi “Triều Tiên” là lấy từ thời đại Cổ Triều Tiên tồn tại nhiều ngàn năm trong lịch sử bán đảo này, trong đó có các nước Cơ Tử Triều Tiên, Toán Tử Triều Tiên, Đàn Quân Triều Tiên, Vương Kiếm Triều Tiên, Vệ Mãn Triều Tiên, vẫn còn được ghi chép sơ lược trong cuốn “Tam Quốc Di Sự”. Danh từ “Triều Tiên” còn được dùng cho triều đại Triều Tiên, vốn tồn tại trên 200 năm, là triều đại phong kiến cuối cùng của dân tộc này trước khi bị đế quốc Nhật Bản xâm lược thôn tính.

Còn Đại Hàn Dân Quốc, viết gọn là Hàn Quốc, là một cải biên từ danh từ của 3 bộ lạc “Tam Hàn” và “Đại Hàn đế quốc” của nhà Triều Tiên, và quốc hiệu này chỉ tồn tại vỏn vẹn có 13 năm là triều đình Triều Tiên sụp đổ, thất thủ trước quân xâm lược Nhật.

Những năm cuối cùng của triều đại Triều Tiên dưới quốc hiệu Đại Hàn thì đã rất suy đồi, suy yếu, triều cương hủ bại, vua quan chỉ lo hưởng lạc, bỏ bê việc triều chính, dung túng quan binh nhũng nhiễu bá tánh, nhân dân đói khổ, lầm than, than oán, là một trong những triều vua tệ nhất trong lịch sử dân tộc Cao Ly. Nên khi nước Nhật đem quân tiến vào chiếm lấy Triều Tiên nhanh chóng mà không khó nhọc gì. Vì vậy việc lực lượng Lý Thừa Vãn lập quốc trước mà lại lấy Đại Hàn làm quốc hiệu thì khá khó hiểu.

Quốc kỳ Đại Hàn Dân Quốc là lá cờ Thái Cực Âm Dương (Ying Yang) với bát quái (tám quẻ) bao quanh. Theo lịch sử Triều Tiên, đây là lá cờ của Quân Giải phóng Triều Tiên thành lập năm 1941 cải biên từ lá cờ triều đình của vương quốc Tân La, một triều đình hùng mạnh và từng có công thống nhất bán đảo Triều Tiên, nhưng cũng bị nhiều sử gia Triều – Hàn xem là bọn cõng rắn cắn gà, vương triều này là “đồ đệ” trung thành của triều đình nhà Đường ở Trung Quốc, cùng với quân nhà Đường đánh nhau với anh em trong nhà trong các thời Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, đánh Bột Hải, đánh Cao Câu Ly (tiền thân của đế chế Cao Ly sau này)… Suốt thời kỳ cầm quyền và cả thời Tân La thống nhất sau này, triều Tân La thường là đồng minh trung thành của Trung Hoa, chuyên cùng với quân Trung Hoa đi thảo phạt các thế lực khởi nghĩa, nổi dậy trong nước.

Hàn Quốc chống cộng mà lại dùng một lá quốc kỳ đậm chất Trung Hoa như vậy là vì lúc đó là năm 1948, Trung Hoa Quốc dân đảng còn chưa thua. Có lẽ vì vậy tập đoàn Lý Thừa Vãn muốn tỏ ý thân thiện và thần phục Trung Hoa.

Mặc dù tuyên bố theo chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Marx – Engels – Lenin, nhưng nhiều học giả phương Tây nhận xét rằng CHDCND Triều Tiên theo chủ nghĩa Stalin và nặng tính chủ nghĩa Mao Trạch Đông hơn là chủ nghĩa Marx thật sự.

Năm 2003, Triều Tiên đã chỉnh sửa và bổ sung Hiến pháp, và dùng thuật ngữ Chủ thể thay vào tất cả các thuật ngữ cộng sản trong Hiến pháp, hoàn toàn theo đuổi một con đường riêng với chủ nghĩa Juche của Kim Nhật Thành và chính sách Tiên quân, quân đội hàng đầu (선군 정책) của Kim Chính Nhật.

Bố cục Triều Tiên và chiến tranh liên Triều chẳng khác nhiều với thời kỳ Tiền Tam Quốc, Tam Quốc (Triều Tiên), Hậu Tam Quốc, và Nam Bắc Triều ở trên bán đảo Triều Tiên, với các quốc gia, phe phái thế lực khác nhau thống trị bán đảo như Bắc Phù Dư, Đông Phù Dư, Cao Câu Ly, Bách Tế, Tân La, Bột Hải, Hậu Cao Câu Ly, Hậu Bách Tế.

Cao Ly chia rẽ, phân hóa, nội chiến, nội loạn cũng gần như phong kiến Trung Hoa. Thời cận đại do những diễn biến lịch sử, các đặc điểm lịch sử khách quan, nên bán đảo này hình thành 2 nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở Bắc Cao Ly (North Korea) và Đại Hàn Dân Quốc ở Nam Cao Ly (South Korea), âu cũng là nối tiếp truyền thống xa xưa và lịch sử tái hiện.

Liên Xô giải phóng Bắc Triều Tiên

Mỹ giải phóng Nam Triều Tiên

Ngày 8 tháng 9 năm 1945, Liên Xô và Hoa Kỳ tiến quân vào bán đảo Triều Tiên giải giáp quân đội Nhật. Liên Xô đã rút quân ra khỏi Bắc Triều Tiên vào năm 1948, trong khi Mỹ kéo dài việc đóng quân tại Nam Triều Tiên cho đến năm 1949.

Tại Bắc Triều Tiên, viên tướng trẻ Kim Nhật Thành cùng với Hội Phục hưng Tổ quốc và Quân Chí nguyện Triều Tiên kết hợp với các lực lượng ái quốc, kháng Nhật, Cộng sản và thân Cộng khác ở Bắc Triều Tiên và Trung Quốc, lập ra Ủy ban Nhân dân Lâm thời Bắc Triều Tiên, sau đó thành lập Đảng Lao động Bắc Triều Tiên, về sau sáp nhập Đảng Nhân dân Mới vào rồi đổi tên thành Đảng Lao động Triều Tiên. Đảng này đồng thời tiến hành thanh trừng phe phái và bắt đầu một cuộc đấu tranh quyền lực ác liệt nhằm tranh giành địa vị chính trị và tư cách lãnh đạo với Đảng Cộng sản Triều Tiên trên chính trường Bắc Triều Tiên.

Đảng Cộng sản Triều Tiên(조선공산당, Triều Cộng) là một chính đảng cộng sản theo chủ nghĩa Lenin, được Quốc tế III (do Lenin sáng lập), dưới sự lãnh đạo của Stalin, chỉ đạo thành lập tại Triều Tiên vào năm 1925 dưới thời Nhật thuộc.

Cuối những năm 1920, Đảng Cộng sản Triều Tiên mở rộng hoạt động ra các khu vực có người Triều Tiên sinh sống gồm Nhật Bản và Mãn Châu. Do bị Nhật đàn áp, Trung ương đảng này bị xóa sổ rồi lập lại nhiều lần, vì thế mà có đến 4 đảng phái tự nhận là Đảng Cộng sản Triều Tiên.

Sau khi Đảng Cộng sản Triều Tiên bị Quốc tế Cộng sản, dưới sự chỉ đạo của Stalin, giải thể vào năm 1929 vì cho là chủ nghĩa sô-vanh, chủ nghĩa dân tộc cải lương. Mặc dù trung ương đảng đã giải tán, nhiều chi bộ của nó vẫn tồn tại và phong trào tái lập Đảng Cộng sản Triều Tiên vẫn được tiếp tục ở nhiều nơi ở Bắc Triều Tiên.

Sau chiến tranh Thái Bình Dương (Thế Chiến II), Đảng Cộng sản Triều Tiên được một số chí sĩ tái lập vào tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, người sáng lập Đảng Lao động Triều Tiên, Kim Nhật Thành không có quan hệ gì với Đảng Cộng sản Triều Tiên, đồng thời giữa hai đảng này lại có những đối lập giữa các cá nhân, vì thế Kim và Đảng Lao động Triều Tiên trước khi lập quốc đã thanh trừng đối thủ chính trị của mình, dùng lực lượng quân sự có sẵn để tiến hành đánh dẹp bình định trong nỗ lực thống nhất Bắc Triều Tiên.

Đảng Cộng sản Triều Tiên không có lực lượng quân sự trong tay, nên đã bị đánh dẹp dễ dàng. Từ đó, quan điểm chính thống của CHDCND Triều Tiên luôn có những đánh giá mang tính phủ định đối với Đảng Cộng sản Triều Tiên, họ sợ uy tín và những công lao của Đảng Cộng sản Triều Tiên gây ảnh hưởng tiêu cực, làm lu mờ đi vai trò và tầm ảnh hưởng của Đảng Lao động Triều Tiên.

Đảng Lao động Triều Tiên thực chất là một chính đảng gia đình trị, do gia tộc họ Kim chi phối. Gia tộc họ Kim là một gia đình yêu nước, cả nhà chống Nhật. Nhà ngoại của Kim Nhật Thành đã hoạt động tuyên truyền chống Nhật từ những năm đầu kháng chiến, gia đình phải vào đạo Cơ Đốc Tin Lành để tránh tai mắt của quân xâm lược, ông ngoại của Kim Nhật Thành cũng phải hóa thân làm một mục sư.

Đến năm 1920, trước tình hình bố ráp ngày càng căng của toàn quyền Nhật, gia đình này vượt sông Áp Lục, tỵ nạn chính trị và sống lưu vong ở Mãn Châu, Trung Quốc.

Được giáo dục lòng yêu nước chí khí đấu tranh từ người cha, năm 14 tuổi, Kim Nhật Thành đã truyền bá bài hát “Ái Quốc Ca” (sau này là quốc ca Triều Tiên) để tuyên truyền lòng yêu nước trong cộng đồng lưu vong Triều Tiên, sau đó ông cùng một số kiều dân tỵ nạn Triều Tiên đồng trang lứa ở Mãn Châu thành lập Liên minh Đả đảo Chủ nghĩa Đế quốc vào năm 1926 để phản đối chính sách bành trướng của các cường quốc tư bản và phát xít trên thế giới thời ấy.

Tuy nhiên, đó là một tổ chức non yếu, thiếu tính chuyên nghiệp, do những thành viên trong nhóm này còn quá trẻ, nhiệt tình có thừa nhưng trình độ chính trị chưa đủ độ chín chắn, già dặn, lão luyện. Mao Trạch Đông gọi Kim Nhật Thành là “Kim tiểu anh hùng” và gia đình họ Kim là “toàn gia yêu nước”.

Năm 17 tuổi, Kim Nhật Thành với những tiến bộ nhất định về nhận thức và kiến thức chính trị, ông đã gia nhập Hội Thanh niên Cộng sản Nam Mãn Châu và bị phát xít Nhật tống giam vào năm 1929.

Sau khi cùng với các đồng chí vượt ngục thành công, ông tham gia các lực lượng du kích chống Nhật ở vùng Hoa Bắc Trung Quốc.

Vào năm 1935, ông gia nhập Quân đội Hỗn hợp kháng Nhật vùng Đông Bắc, một nhóm du kích chống Nhật do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, có cùng một mục tiêu chiến đấu chống quân phiệt Nhật nói riêng và chủ nghĩa phát xít nói chung.

Vừa tham gia vào lực lượng này thì Kim Nhật Thành đã chứng tỏ được bản lĩnh chính trị xuất sắc so với lứa tuổi, trẻ tuổi như thế nhưng ông đã được chỉ định làm chính trị viên cho chi đội thứ ba của sư đoàn 2, với khoảng 160 chiến sĩ, ông là chính trị viên trẻ tuổi nhất trong quân đội lúc đó.

Liên Xô đã tôn trọng hiệp ước Moscow ký kết với 4 nước đồng minh là Mỹ, Trung Quốc, Anh, và Pháp vào tháng 12, 1945. Họ rút hết quân về nước vào năm 1948 theo thỏa thuận trong hiệp nghị.

Dưới sự bảo vệ của Hồng quân trước mối đe dọa từ các lực lượng đế quốc, các nhóm Triều Tiên kháng Nhật ở Bắc Triều Tiên đã tôn viên tướng trẻ của họ lên làm lãnh tụ tối cao.

Hiện tượng này là dễ hiểu, vì Kim gia là một gia tộc có thế lực nhất ở Bắc Triều Tiên và có nhiều mối quan hệ với Trung Quốc và những phe nhóm hoạt động chính trị kháng Nhật ở Bắc Triều Tiên và Mãn Châu, Trung Quốc.

Kim Nhật Thành đã đấu tranh kháng Nhật từ nhỏ, ông được nhiều người dân Bắc Triều Tiên ủng hộ, đặc biệt là cư dân khu vực biên giới Trung – Triều quanh sông Áp Lục, cộng đồng người Hoa kiều ở Bắc Triều Tiên và người Mãn Châu gốc Triều Tiên, và còn là một “huyền thoại quân sự” trong tâm trí người dân biên giới phía Bắc, nơi mà Kim Nhật Thành đã nhiều lần chỉ huy một đạo quân chỉ có vài trăm chiến sĩ mà đánh thắng nhiều đơn vị thiện chiến của quân Quan Đông Nhật, và là vị tướng trẻ duy nhất lúc đó đã liên tục đưa quân đột kích những đồn lính của Nhật quanh vùng biên giới.

Kim Nhật Thành năm 1946

Tại Nam Triều Tiên, Lý Thừa Vãn, một nhà chính trị lão luyện, cao tuổi, đã hoạt động chống Nhật lâu năm theo đường lối cải lương, đấu tranh chính trị, đòi dân quyền, hoạt động khai thông dân trí tương đồng với chủ trương của Gandhi ở Ấn Độ và Phan Châu Trinh ở Việt Nam với chủ trương thân Mỹ và tư bản phương Tây, tiến hành bầu cử Quốc Hội ở Nam Triều Tiên và tuyên bố độc lập vào ngày 15/8/1948, thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc) ở Nam Triều Tiên.

Trong cuộc bầu cử này, Lý Thừa Vãn đã dùng thủ đoạn chính trị đưa Kim Cửu vào danh sách ứng cử viên mà Kim Cửu không hề biết trước, nhưng lại sắp xếp hậu trường giữ cho Kim Cửu không thể thắng.

Sau đó, Kim Cửu khẳng định mình không hề tham gia vận động tranh cử và không biết gì về việc này, ông ta khẳng định đây là tiểu xảo của Lý Thừa Vãn nhằm mục đích phá hoại hình ảnh của ông, lúc đó vốn đang là đối thủ chính trị bất đắc dĩ của Lý và thường chỉ trích tính cách độc tài, độc đoán của ông ta.

Kim Cửu cũng khẳng định ông chưa bao giờ có ý định tham gia tranh cử, vì ông ta cương quyết chống lại sự phân chia lãnh thổ và chia rẽ dân tộc.

Ngoài mưu đồ trên, Lý Thừa Vãn còn muốn lợi dụng tên tuổi Kim Cửu để tăng cường trang trí cho cuộc bầu cử, tăng cường trang điểm cho hình ảnh của chính ông ta, rằng ông ta đã giành thắng lợi trước Kim Cửu.

Phe Lý Thừa Vãn tuyên bố thành lập nước Đại Hàn Dân Quốc trước đông đảo quần chúng Nam Triều Tiên.

Lý Thừa Vãn, một chính khách theo chủ nghĩa dân túy và bị nhiều người Mỹ gọi là “con cắc kè thay đổi màu sắc”. Là một nhà chính trị cao niên và dày dặn kinh nghiệm chính trị, là tên tuổi lớn nhất trong trường phái chống Nhật ôn hòa ở Nam Triều Tiên, Lý là “kỳ phùng địch thủ” của tướng Kim Nhật Thành, tên tuổi lớn nhất trong trường phái bạo lực cách mạng chống Nhật ở Bắc Triều Tiên.

Ngay sau đó, Kim Nhật Thành và Đảng Lao động liền phản ứng, họ cũng tức tốc tiến hành bầu cử Quốc hội ở Bắc Triều Tiên. Ngày 9/9/1948, tuyên bố độc lập và thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở Bắc Triều Tiên. Từ đó, bán đảo Triều Tiên có đến hai “ngày độc lập” khác nhau, do cả Bắc Nam Triều Tiên đều đọc tuyên ngôn độc lập và tuyên bố lập quốc ở hai đầu đất nước cùng một thời điểm trong năm 1948.

Chiến tranh Triều Tiên

Trong thời gian đầu năm 1950, quân đội Triều Tiên và quân đội Hàn Quốc tuần tra quanh khu vực vĩ tuyến 38 đã liên tục nảy sinh những xung đột quân sự, lúc thì quân Triều Tiên vượt ranh giới xâm phạm trước, khi thì quân Hàn Quốc nổ súng trước, vượt làn ranh vào trong lãnh thổ của Triều Tiên và bắn phá vào dân Triều Tiên, gây ra nhiều cuộc chạm súng nảy lửa quanh vĩ tuyến 38.

Năm 1950, Kim Nhật Thành đề nghị Trung Quốc viện trợ và giúp đỡ Triều Tiên tiến hành chiến tranh tấn công Hàn Quốc, nhưng bị từ chối. Trung Quốc không ủng hộ tiến hành chiến tranh tấn công Hàn Quốc vì đoán rằng Mỹ sẽ cứu viện và theo đó, chiến tranh sẽ leo thang và liên lụy đến Trung Quốc một khi Mỹ tiến hành Bắc tiến. Chu Ân Lai cũng khuyên phải thận trọng, lo sợ về một viễn cảnh Thế Chiến III một khi Mỹ nhập cuộc.

Do không được Trung Quốc đồng ý ủng hộ, Kim Nhật Thành phải hướng về Liên Xô cầu viện. Báo Hồng Kông “Bưu báo Hoa Nam buổi sáng” (Hoa Nam tảo báo) ngày 25/7/2010 dẫn các hồ sơ lịch sử được giải mật ở Trung Quốc cho thấy ban đầu, Mao Trạch Đông đã phản đối quyết liệt kế hoạch tấn công Hàn Quốc của Bình Nhưỡng cho tới 6 tuần trước khi nổ ra cuộc Nam tiến, và Mao Trạch Đông chỉ thay đổi quan điểm sau thuyết phục của Stalin. Sau khi Stalin đề nghị hỗ trợ, Mao Trạch Đông đã thay đổi quan điểm và trở thành người ủng hộ cuộc chiến này.

Theo cuốn sách “Mao Trạch Đông, Stalin và Chiến tranh Triều Tiên” của tác giả Thẩm Chí Hoa, Trung Quốc cũng không được chia sẻ thông tin về kế hoạch tấn công Hàn Quốc của CHDCND Triều Tiên.

Ngày 19/1/1950, Kim Nhật Thành nói với đại sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng rằng ông ta có kế hoạch giải phóng tổ quốc. Được tin đó, Stalin gửi một bức điện với nội dung ủng hộ kế hoạch, nhưng không nói gì với Mao Trạch Đông, lúc này đang thăm Điện Cẩm Linh.

Stalin cũng đồng ý viện trợ trong năm 1950 vũ khí và trang thiết bị đã cam kết cho năm 1951, để Kim Nhật Thành có thể tăng thêm 3 sư đoàn, nâng quân đội Bắc Triều Tiên lên 10 sư đoàn. Kim Nhật Thành bảo đảm với Stalin rằng ông ta có thể bình định xong Hàn Quốc trước khi Liên Hiệp Quốc, người Mỹ, và thế giới phương Tây có thời gian cũng như ý định can thiệp.

Đến cuối tháng 4/1950, Kim Nhật Thành gửi một đặc phái viên hàng đầu đến Bắc Kinh để thông báo cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc về kế hoạch tấn công Hàn Quốc. Mao phản đối mạnh mẽ cuộc chiến, nói rằng ông không thể giúp gì được, rằng phải lo duy trì ổn định tình hình trong nước Trung Quốc trước tiên.

Tuy nhiên, Mao Trạch Đông cũng chấp thuận cho hàng ngàn người Triều Tiên phục vụ trong hàng ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trở về phục vụ trong quân đội Kim Nhật Thành.

Theo đề nghị của Stalin, đích thân Kim Nhật Thành đến Bắc Kinh ngày 13/5/1950 để thuyết phục Mao Trạch Đông. Cuộc mật đàm gay gắt kéo dài đến tận đêm mà hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận nào.

Ngay sau đó, Stalin đã gửi cho Mao Trạch Đông một bức điện nói rằng vì những thay đổi trong trật tự quốc tế, giới lãnh đạo Liên Xô đã đồng ý kế hoạch của Bắc Triều Tiên: “Vấn đề này phải được các đồng chí Triều Tiên và Trung Quốc giải quyết. Các đồng chí Triều Tiên sẽ đưa cho ông một thông báo chi tiết về các cuộc trao đổi của họ với chúng tôi”.

Kim Nhật Thành phát động cuộc tổng tấn công bằng đại quân từ Bắc xuống Nam vào ngày 25/6/1950 và đã thành công lớn. Nhưng sang tháng 7, Hoa Kỳ dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào cuộc chiến và đẩy lui các lực lượng Bắc Triều Tiên. Kim Nhật Thành khiếp sợ khi chứng kiến sức mạnh tàn phá hủy diệt ghê gớm của không quân Mỹ mà Bắc Triều Tiên không có cách nào ngăn chặn được. Nhà lãnh đạo này gửi một bức điện tới Stalin, xin được hỗ trợ quân sự mà nếu không từ Liên Xô được thì cũng từ các quốc gia đồng minh khác của Liên Xô.

Ngày 1/10/1950, Mao Trạch Đông tổ chức một cuộc họp khẩn Ban Bí thư Trung ương Đảng, bao gồm Chu Đức, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. Nhiều ý kiến bất đồng, nhưng với sự ủng hộ của Chu Ân Lai, quyết định ra quân của Mao Trạch Đông đã thắng. Được chọn làm tổng chỉ huy quân Chí nguyện Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh kháng Mỹ viện Triều, Bành Đức Hoài tham dự một cuộc họp khác tại Trung Nam Hải vào ngày 4/10/1950. Vị nguyên soái kể lại: “Không khí rất không bình thường. Sự khác biệt trong các ý kiến là rất lớn”. Ngày 19/10/1950, quân Chí nguyện vượt sông Áp Lục và ngày 25/10 cùng năm, họ đụng độ với lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ đứng đầu.

Quân đội Trung Quốc tham gia chiến tranh Triều Tiên được gọi là “quân Chí nguyện” để tránh một cuộc chiến chính thức với Mỹ. Họ đã có những thành công đáng kể trước đối thủ được trang bị tốt nhất và có công nghệ cao nhất thế giới.

Đến Giáng sinh năm 1950, quân Trung Quốc đã có thể chiếm lại phần lớn vùng lãnh thổ mà quân đội Bắc Triều Tiên bị đẩy lùi trước đó. Quân đội Trung Quốc đánh chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng từ tay Mỹ vào ngày 4/1/1951, nhưng bị đánh bật một lần nữa trong tháng 3. Đến tháng 6, sau nhiều lần đổi chủ, thủ đô Bình Nhưỡng lại về tay Trung Quốc, quân đội Trung Quốc sau đó đánh bật quân Mỹ ra khỏi Bắc Triều Tiên, chiến tranh lan rộng sang Nam Triều Tiên, từ đấy quân đội hai bên lâm vào thế chiến tranh giằng co dữ dội dọc vĩ tuyến 38, chiến trường liên tục chuyển đổi từ Bắc sang Nam, Nam sang Bắc. Phải 2 năm sau mới đạt được thỏa thuận ngừng bắn.

Nhà sử học Trần Lâm (Trung Quốc) cho rằng động cơ của Mao Trạch Đông khi tiến hành chiến tranh Triều Tiên là để thu hút sự chú ý và công nhận Trung Quốc như một cường quốc, đồng thời đoàn kết người dân trong một cuộc chiến yêu nước. Nhà sử học này cũng bình luận: “Kim Nhật Thành đã rất ngạo mạn, tự tin vào sự siêu việt của các trang thiết bị do Liên Xô chế tạo và cho rằng có thể thắng nhanh chóng trước khi bên ngoài can thiệp. Ông ta đã mắc một sai lầm lớn, cũng như tổng tư lệnh Mỹ MacArthur khi cho rằng Trung Quốc sẽ không bao giờ dám nhập cuộc. Cả hai đều quá kiêu căng”.

Sau khi được Liên Xô và Trung Quốc đồng thuận hậu thuẫn, Kim Nhật Thành và quân đội Triều Tiên tiến hành cuộc Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới quyết định tiến hành giải phóng Nam Triều Tiên là do nhiều chiến dịch khủng bố “Thánh chiến phản Cộng” vô cùng tàn ác mà chính phủ Lý Thừa Vãn đã tiến hành ở miền Nam Triều Tiên trong suốt giai đoạn 1947–1950, mà đỉnh cao là cuộc chôn sống tập thể gần 400 người, trong đó có nhiều phụ nữ, cụ già, trẻ em, thậm chí cả những người đàn bà đang mang thai. Những cuộc thảm sát ở miền Nam Triều Tiên lâu nay bị bưng bít rất kín và chỉ được đưa ra ánh sáng từ năm 2001 đến nay, một số phóng viên có lương tâm trong đài CNN đã đi tiên phong trong việc này và sau đó được noi theo bởi nhiều tổ chức thiện nguyện, phi chính phủ và phi lợi nhuận ở Hàn Quốc. Lý Thừa Vãn theo đó bị coi là một kẻ phạm tội ác diệt chủng, chống nhân loại.

Tác phẩm Cuộc đại thảm sát Triều Tiên (1951) của họa sĩ nổi tiếng Picasso. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đã vẽ lại cuộc thảm sát man rợ đó.

Năng lực chính trị hạn chế của Triều Tiên, cộng với uy tín hạn chế, tầm vóc của chủ tịch Kim Nhật Thành ở Nam Triều Tiên lại không được như ở Bắc Triều Tiên, vì vậy Kim Nhật Thành không huy động nổi một cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam, và sự thiếu quyết tâm và thờ ơ với chính trị của người dân Nam Triều Tiên, khiến cho những phong trào đấu tranh, chống đối ở Nam Triều Tiên bị đàn áp và dẹp bỏ dễ dàng. Lực lượng của CHDCND Triều Tiên cũng không có cách nào trà trộn vào được, bởi vì họ không được sự ủng hộ rộng rãi và có nền móng vững chắc, cơ sở quần chúng ở miền Nam.

Trước sự thất thế trong đấu tranh chính trị và võ lực ở Nam Triều Tiên, Kim Nhật Thành bèn quyết định tấn công quy mô, tổng lực, toàn diện, dùng trận địa chiến rộng lớn tấn công tổng lực triệt để vào Nam, nhằm tiêu diệt và xóa sổ Hàn Quốc thật nhanh trước khi các thế lực bên ngoài kịp thời can thiệp, theo tham mưu “tốc chiến tốc quyết” (đánh nhanh giải quyết nhanh) của tướng Trần Canh, khi hai người hội kiến và đàm luận ở Trung Quốc.

Triều Tiên nam tiến

Cuộc tấn công của quân đội Triều Tiên xảy ra vào sáng sớm ngày chủ nhật 25/6/1950, họ đã vượt vĩ tuyến 38 và được hậu thuẫn bởi một trận địa pháo bắn phá dữ dội vào phía trước.

Được trang bị tốt với gần 15 vạn quân và 240 xe tăng bao gồm 150 xe tăng T-34 do Liên Xô sản xuất, quân đội Triều Tiên bắt đầu cuộc chiến với khoảng 180 máy bay, gồm có 40 máy bay tiêm kích YAK và 70 máy bay ném bom.

Lực lượng quân đội phòng thủ của Hàn Quốc đông hơn gần gấp đôi, nhờ dân số Nam Triều Tiên đông hơn gần gấp đôi Bắc Triều Tiên, nhưng yếu hơn nhiều cả về tinh thần chiến đấu lẫn năng lực tác chiến.

Đa số binh lính Hàn Quốc đều là tân binh mới nhập ngũ, quân đội vừa được chế độ mới xây dựng không bao lâu. Trong khi đó, quân đội Triều Tiên là một quân đội nhà nghề đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu trực diện với quân Quan Đông của Nhật, với những chiến binh từng phục vụ trong hàng ngũ Tân Tứ quân, Bát Lộ quân của Hồng quân Công Nông Trung Quốc, tham chiến chống lại phát xít Nhật, quân Tưởng và quân phiệt, với những sĩ quan cao cấp chuyên nghiệp từng phục vụ trong Hồng quân Trung Quốc và Hồng quân Liên Xô.

Quân đội Hàn Quốc có gần 60 vạn quân, nhưng trong đó chỉ có khoảng 5 vạn quân là có năng lực tác chiến tốt, chủ yếu từ lực lượng Giải phóng quân và Quang phục quân xuất thân từ Trùng Khánh và Nam Kinh của Trung Quốc, được Quốc dân đảng huấn luyện và đã có kinh nghiệm chiến đấu kháng Nhật trên chiến trường Trung Quốc.

Quân Hàn lúc đó chỉ sở hữu các loại vũ khí hạng nhẹ mà Mỹ đã bỏ không dùng từ sau Thế Chiến II. Họ không có xe tăng, rất thiếu xe thiết giáp và pháo binh, họ cũng không có máy bay tiêm kích và vũ khí chống tăng.

Cuộc tấn công được Kim Nhật Thành và đồng sự hoạch định tốt với khoảng 15 vạn đại quân chủ lực tinh nhuệ và đã gây được hiệu ứng bất ngờ và đạt được những thành công thần tốc. Triều Tiên tiến quân theo chiến lược đánh nhanh thắng nhanh, tốc chiến tốc thắng, đánh mau đánh mạnh, với khí thế và tốc độ “sấm chớp không kịp bưng tai”, đã tấn công bất thần vào nhiều trọng điểm chiến lược như Kaesong (Khai Thành), Chuncheon (Xuân Xuyên), Uijeongbu (phủ Nghị Chính) và Ongjin (Úng Tân).

Trong những ngày đầu giao chiến, lực lượng Hàn Quốc bị thua sút về kỹ năng chiến đấu và chất lượng vũ khí, quân đội Triều Tiên có kỹ năng tác chiến cao hơn. Quân đội Hàn Quốc tuy đông hơn nhưng đa số là tân binh, chưa kinh qua thực chiến trên chiến trường và thậm chí chưa được huấn luyện nhiều trong quân trường. Các sĩ quan mới còn rất trẻ và theo đó chưa có nhiều thời gian nghiên cứu, học hành, cũng như chưa tốt nghiệp những học viện quân sự đủ tiêu chuẩn, như các sĩ quan Triều Tiên đã qua du học ở Trung Quốc và Liên Xô. Trong nhiều trường hợp, chính sự đông quân của Hàn Quốc đã phản tác dụng và tác động tiêu cực lên chính họ, họ tự liên lụy lẫn nhau, dẫm đạp lên nhau mà chạy. Do quân đông mà thiếu tinh nhuệ, nên quân Hàn dễ bị loạn, dễ vỡ trận và dẫn tới tình huống “binh bại như núi đổ”.

Lúc này Mỹ cũng đã hoàn thành rút quân từ đầu năm 1950, họ không nghĩ CHDCND Triều Tiên dám ngang nhiên bất chấp tất cả mà tấn công tổng lực vào Nam Triều Tiên, bất chấp Liên Hiệp Quốc. Trên thực tế, chính Kim Nhật Thành đã “canh” kỹ và chỉ đánh xuống Nam sau khi Mỹ đã rút quân số lượng lớn.

Trước đó, Mỹ vốn đã vi phạm hiệp nghị Moscow về Triều Tiên, kéo dài việc đóng quân ở Nam Triều Tiên đến giữa năm 1949 mới bắt đầu rút dần quân ra khỏi Nam Triều Tiên và chỉ rút quân số lượng lớn vào đầu năm 1950.

Binh sĩ Hàn Quốc cũng không có chính nghĩa rõ ràng và thường mơ hồ về lòng trung thành với chính thể họ Lý, không có tâm tình chiến đấu, đào ngũ bỏ trốn, tháo chạy toàn bộ, hoặc đào ngũ hàng loạt sang phía Triều Tiên. Khi cuộc tấn công trên bộ tiếp tục, không quân Triều Tiên tiến hành oanh tạc phi trường Kimpo (Kim Phố) gần Seoul (Hán Thành). Lực lượng Triều Tiên chiếm được thủ đô Hán Thành trưa ngày 28 tháng 6.

Ngay sau đó, các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu, bao gồm 39 quốc gia tham gia, trong đó có liên quân 21 nước, với sự cung cấp nguồn nhân lực đáng kể từ Khối thịnh vượng chung Anh quốc. Tất cả lực lượng này đều tham chiến dưới quyền tổng tư lệnh của Thống tướng Douglas MacArthur, một danh tướng nổi tiếng của Hoa Kỳ, một người rất có tài về quân sự.

Chiến tranh Triều Tiên

Đại tướng năm sao Douglas MacArthur, nguyên soái của quân đội Mỹ tại Philippines, Tổng tư lệnh liên quân của Bộ tư lệnh Liên Hiệp Quốc ở Nam và Bắc Triều Tiên. Ông là Tham mưu trưởng quân đội Hoa Kỳ trong những năm 1930 và đóng một vai trò nổi bật trên chiến trường Thái Bình Dương trong Thế Chiến II. Ông là Giám đốc Học viện Quân sự West Point, và là Tổng chỉ huy của quân đội Hoa Kỳ ở Viễn Đông. Trước chiến tranh Triều Tiên, ông giám sát sự chiếm đóng Nhật Bản của quân Mỹ từ năm 1945 đến 1951, và là người cai trị hiệu quả ở Nhật.

Sau khi nghe báo cáo về chiến sự toàn diện diễn ra tại Triều Tiên, tổng thống Mỹ Truman ra lệnh cho tướng MacArthur chuyển vũ khí đạn dược đến cho quân đội Hàn Quốc. Truman phát lệnh cho không quân ồ ạt chống lại lực lượng Triều Tiên.

Sự can thiệp lớn nhất và đầu tiên của quân đội Mỹ là lực lượng Đặc nhiệm Smith, một bộ phận của sư đoàn 24 Bộ binh Hoa Kỳ đóng ở Nhật Bản.

Ngày 5 tháng 7, lực lượng này chinh chiến lần đầu tiên ở Osan (Ô Sơn) và bị quân đội Triều Tiên đánh bại với tổn thất cao. Lực lượng thắng lợi của Triều Tiên tiến quân về phía nam, sư đoàn 24 Mỹ với sức mạnh còn phân nửa bị buộc phải chạy về Taejeon (Đại Điền), không ngờ nơi đó đã bị quân Triều Tiên đánh chiếm từ trước. Tướng Mỹ William Dean không còn cách nào khác ngoài việc buông súng đầu hàng.

Vào tháng 8, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ bị quân đội CHDCND Triều Tiên đẩy lui vào một vùng nhỏ trong cạnh đông nam của bán đảo Triều Tiên quanh thành phố Pusan (Phú Sơn). Ngày 20 tháng 8, MacArthur gửi một thông điệp cảnh cáo Kim Nhật Thành rằng ông ta phải chịu trách nhiệm cho các hành động chống lại Liên Hiệp Quốc.

Vào tháng 9, chỉ còn thành phố Pusan (Phú Sơn) – diện tích bằng khoảng 10% bán đảo Triều Tiên – là vẫn chưa thất thủ. Với sự hỗ trợ tiếp vận lớn lao; không quân yểm trợ, và viện quân, quân đội Hoa Kỳ đã giữ vững được phòng tuyến dọc theo sông Nakdong (Lạc Đông). Hành động bám giữ liều lĩnh này trở thành nổi tiếng tại Hoa Kỳ với tên gọi là “Vành đai Pusan”.

Không lực Mỹ đến với số lượng lớn, thực hiện 40 phi vụ mỗi ngày để hỗ trợ bộ binh, gây ra sự tàn phá to lớn đến dân lành vô tội cũng như các công trình dân sự. Các máy bay ném bom chiến thuật (đa phần là oanh tạc cơ B-29 có căn cứ ở Nhật) phá hoại lưu thông đường xá và đường xe lửa trong ban ngày, và tàn phá 32 cây cầu rất quan trọng đối với việc di tản của người dân. Xe lửa dùng cho dân sự phải nằm chờ đợi lúc ban ngày, bên trong các đường hầm.

Khắp nơi ở Triều Tiên, các máy bay ném bom Hoa Kỳ thi nhau đánh bom các kho tiếp liệu chính và phá hủy các nhà máy lọc dầu và hải cảng nhận hàng nhập cảng như tiếp liệu quân sự để làm cạn kiệt lực lượng Triều Tiên. Không lực hải quân cũng tấn công các điểm chuyển vận. Lực lượng Triều Tiên đã bị kéo giãn ra trên toàn bán đảo, và sự tàn phá do bị các máy bay ném bom của Hoa Kỳ gây ra đã ngăn ngừa đồ tiếp liệu cần thiết tới lực lượng Triều Tiên ở phía Nam.

Trong lúc đó, các căn cứ tiếp liệu tại Nhật Bản đưa vũ khí và binh sĩ Mỹ ào ạt vào Phú Sơn (Pusan). Các tiểu đoàn xe tăng Hoa Kỳ từ thành phố San Francisco được cấp bách đưa vào Triều Tiên; vào cuối tháng tám, Hoa Kỳ có trên 500 xe tăng loại trung tại vành đai Phú Sơn. Đầu tháng 9, quân đội Mỹ được củng cố viện binh mạnh hơn và đông hơn quân Triều Tiên (Mỹ 18 vạn quân so với Triều Tiên 10 vạn quân). Đúng thời điểm này, khi quân Mỹ đông gần gấp đôi quân Triều Tiên, Mỹ bắt đầu mở cuộc tổng phản công.

Đối diện với các cuộc tăng viện áp đảo của lực lượng liên quân Liên Hiệp Quốc, lực lượng Triều Tiên tự nhận thấy mình có quân số ít hơn và có hỗ trợ tiếp liệu yếu kém. Họ cũng thiếu hỗ trợ của không lực và hải lực so với Hoa Kỳ.

Diệu kế Nhân Xuyên

Ngay khi được Tổng thống Truman giao nhiệm vụ chỉ huy quân đội Mỹ tại Hàn Quốc, tướng MacArthur đã đề xuất chiến dịch phản công bằng cuộc đổ bộ lên Nhân Xuyên (Incheon), thành phố cảng nằm cách thủ đô Hán Thành (Seoul) khoảng 27 km.

Trong khi đó, Lầu Năm Góc muốn thực hiện cuộc đổ bộ lên Kunsan (Quần Sơn), một thành phố cảng nằm trên Hoàng Hải, cách thủ đô khoảng 200 km. Tháng 8/1950, các chỉ huy cấp cao hải quân, thủy quân lục chiến và quân đội Mỹ họp cùng tướng MacArthur tại Tokyo, Nhật Bản, lúc này đang nằm dưới quyền cai trị của Mỹ.

Phần lớn các tướng lĩnh và tham mưu người Mỹ phản đối kế hoạch đổ bộ Nhân Xuyên vì khu vực này là khu vực quan yếu được chú ý bảo vệ kỹ lưỡng, khả năng thành công thấp. Họ cho rằng, đổ bộ lên Quần Sơn sẽ khả thi hơn, ít thương vong hơn.

Tuy vậy, MacArthur kiên trì phân tích, vì Nhân Xuyên được phòng thủ chặt nên địch sẽ bị bất ngờ khi tấn công vào đây, chiến thắng Nhân Xuyên sẽ tránh được cuộc chiến kéo dài trong mùa đông khắc nghiệt bằng cách đánh bại một trong những điểm phòng ngự mạnh nhất của Triều Tiên. Ngoài ra, Nhân Xuyên, với khoảng cách địa lý gần thủ đô Hán Thành, là một trọng điểm chiến lược then chốt.

Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, tướng Joseph Lawton Collins và tham mưu trưởng Hải quân, Đô đốc Forrest Sherman ủng hộ cuộc đổ bộ Nhân Xuyên. Họ cho rằng quân sự Triều Tiên là những “người máy” theo tư tưởng Stalin và học thuyết quân sự Stalin, chỉ biết tấn công, không biết phòng thủ, chỉ biết chiến đấu thật thà dũng cảm mà không biết quyền mưu. Vì vậy, quân Triều Tiên sẽ là “sư tử” trong tấn công và là “cừu non” trong phòng ngự.

Với tư cách là một Tổng Tư lệnh ra quyết định tối hậu, để giảm sức ép đối với vành đai Phú Sơn, thống soái MacArthur đã hạ lệnh tiến hành cuộc đổ bộ này, đây sẽ là một cuộc đổ bộ từ biển vào bờ xa phía sau phòng tuyến của Triều Tiên tại hải cảng Nhân Xuyên ven bờ biển tây của Hàn Quốc, gần Hán Thành.

Kế hoạch này được đặt mật danh “Chiến dịch Chromite”.

Nghi binh Quần Sơn

Để giữ bí mật cho chiến dịch, quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch nghi binh về một cuộc đổ bộ quy mô lớn lên Quần Sơn (Kunsan), cách Nhân Xuyên khoảng 169 km.

Đầu tháng 9/1950, không lực Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành các chiến dịch ném bom phá hủy những cây cầu và đường phố nhằm cô lập Quần Sơn, một kiểu tấn công thông thường cho một chiến dịch đổ bộ sắp xảy ra, nhằm mục đích nghi binh.

Tại cảng Phú Sơn, Thủy quân lục chiến Mỹ thuyết trình cho binh sĩ về chiến dịch đổ bộ Quần Sơn (chiến dịch ma, kế hoạch ma) và cố tình để lộ tin giả này cho tình báo Triều Tiên. Một nhóm tàu chiến của Anh và Mỹ di chuyển hướng về Kunsan để đánh lạc hướng.

14 ngày trước cuộc tấn công chính, Cơ quan Tình báo Liên Hiệp Quốc (trực thuộc Bộ tư lệnh Liên Hiệp Quốc) phái một nhóm đặc nhiệm Mỹ bí mật xâm nhập Nhân Xuyên do trung úy Eugene Clark, hải quân Mỹ dẫn đầu. Nhóm trinh sát cung cấp thông tin về thủy triều tại khu vực cũng như các vị trí của pháo binh Triều Tiên. Những người dân bị bắt cóc để khai thác tin tức về thủy triều và vị trí pháo binh, vị trí phòng thủ của Triều Tiên đều bị bí mật thủ tiêu và ném xuống biển để bảo mật thông tin.

Đêm ngày 10/9/1950, 7 vạn rưỡi binh sĩ cùng 261 tàu chiến bắt đầu cuộc đổ bộ lên Incheon. Đây là cuộc đổ bộ lớn nhất của Mỹ từ sau Thế chiến II. Chiến dịch Chromite mở màn bằng 43 máy bay ném 93 quả bom napalm đốt cháy sườn đông đảo Wolmido, dọn đường cho cuộc đổ bộ.

Sự bố phòng chu đáo của Triều Tiên đối với Nhân Xuyên, sự hiện hữu của một lực lượng quân địch mạnh làm cho cuộc đổ bộ này trở thành một chiến dịch cực kỳ mạo hiểm, vì nếu thất bại thì coi như toàn quân tiêu diệt, tất cả các thành phần bản lĩnh, dũng cảm nhất mới được chọn để thực hiện chiến dịch này.

MacArthur tập hợp quân đoàn 10 Hoa Kỳ dưới quyền của tướng Edward Almond gồm có 7 vạn quân từ Sư đoàn Thủy quân lục chiến 1 Hoa Kỳ và Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ và tăng viện với 8000 quân Hàn Quốc và đổ bộ tại Inchon trong chiến dịch Chromite.

Vào lúc tấn công đổ bộ ngày 15 tháng 9, nhờ vào thám báo của các gián điệp Hàn Quốc, sự cố tình tạo ra thông tin sai lạc và các cuộc rải thảm bom bi, bom napalm và pháo kích kéo dài trước khi đổ bộ. Mặc dù chịu tổn thất khá nặng, nhưng cuộc đổ bộ là một chiến thắng quyết định khi Quân đoàn 10 tràn ngập Nhân Xuyên và đe dọa bao vây quân đội chính quy của Triều Tiên.

Lực lượng phòng thủ cực mạnh của Triều Tiên tại Incheon, vì yếu tố bất ngờ, đã nhanh chóng bị liên quân Hoa Kỳ đánh bại.

Đến ngày 25/9, MacArthur nhanh chóng chiếm được Hán Thành, gây thiệt hại nặng nề cho quân đội Triều Tiên.

Lực lượng trường binh Triều Tiên bị cắt đầu đuôi không thể cứu ứng, bị “binh bại như núi đổ”, nhanh chóng thua chạy về phía Bắc; Mỹ hoàn toàn lật ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng, Triều Tiên chỉ còn khoảng 3 vạn quân phải rút chạy. Quân đội Mỹ đẩy lui quân Triều Tiên ngược qua vĩ tuyến 38.

Quyết định táo bạo của thống tướng MacArthur trong cuộc đổ bộ lên Incheon đã tạo ra bước ngoặt quyết định, thay đổi toàn bộ cục diện chiến tranh Triều Tiên.

Sau đó với tham vọng lớn hơn, quân lực Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38 tiến quân đánh thẳng vào Bắc Triều Tiên. Sự kiện này đánh dấu khoảnh khắc quan trọng trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ khi các nhà lãnh đạo Mỹ bộc lộ ra tham vọng xa hơn nhiều so với chiêu bài “ngăn chặn cộng sản”. Qua việc tấn công xâm lược Bắc Triều Tiên, Mỹ đã cho thấy rõ là họ muốn lật đổ, diệt trừ được một quốc gia thù địch để làm bàn đạp đối trọng với Trung – Nga.

Hoa Kỳ bắc tiến chinh phạt Bắc Triều Tiên

Quân đội Hoa Kỳ vượt ranh giới vào xâm lược Bắc Triều Tiên đầu tháng 10/1950. Quân đoàn 10 Hoa Kỳ đổ bộ từ biển lên bờ tại Wonsan (Nguyên Sơn) và Iwon (Lợi Nguyên). Các đơn vị còn lại của Hoa Kỳ sát cánh với quân đồng minh Liên Hiệp Quốc tiến quân phía bờ tây của Triều Tiên và xâm chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng ngày 19 tháng 10, buộc Kim và chính phủ của ông phải triệt thoái lên phía Bắc và ẩn náu, tử thủ nơi biên giới Trung – Triều, đầu tiên đến Sinuiju (Tân Nghĩa Châu), sau khi quân Trung Quốc vào cứu viện thì chuyển sang Kanggye (Giang Giới Thị).

Vào những ngày cuối tháng 10, quân đội Triều Tiên nhanh chóng tan rã, các thành phố, địa phận ở Bắc Triều Tiên đều đồng loạt thất thủ và đầu hàng. Kim Nhật Thành và Bộ chính trị Đảng Lao động Triều Tiên phải đào vong và cho người sang Trung Quốc cầu viện. Liên quân Liên Hiệp Quốc đại thắng, hạ sát và bắt sống được gần 14 vạn tù binh ở cả hai chiến trường Nam và Bắc Triều Tiên, toàn bộ hệ thống quân đội chủ lực Triều Tiên đã hoàn toàn bị tan hàng rã ngũ. Hàng chục vạn người bị không lực Mỹ hạ sát trên đường bỏ chạy về nước.

Hành động vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực vào Bắc Triều Tiên của Mỹ đã gây quan ngại lớn cho Trung Quốc. Họ lo rằng sự phiêu lưu quân sự của Mỹ sẽ không dừng lại ở sông Áp Lục (Yalu), biên giới Triều Tiên – Trung Quốc, mà sẽ mở rộng chiến tranh vào lãnh thổ Trung Quốc.

Không lực Mỹ, từ ngày 27 tháng 8 đến ngày 25 tháng 9, với 44 chiếc máy bay quân sự, đã dội bom và oanh tạc những căn cứ quân sự và vùng phụ cận của Trung Quốc ở bên kia biên giới, Mãn Châu, Trung Quốc, với lý do được đưa ra là “tàn quân Triều Tiên được tiếp tế qua các căn cứ bên trong Trung Hoa”, gây ra nhiều thương vong cho dân thường và trẻ em ở vùng nông thôn Trung Quốc, nhất là những ngư dân quanh bờ sông Áp Lục.

Trung Quốc cảnh cáo Hoa Kỳ hãy ngừng dội bom và pháo kích sang biên giới, và tuyên bố rằng nếu Mỹ tiến thêm bước nữa thì họ sẽ can thiệp quân sự để bảo vệ an ninh quốc gia.

Chính phủ Mỹ xem những lời cảnh cáo này chỉ là “muốn hù dọa Liên Hiệp Quốc” và không coi trọng lắm.

Ngày 15/10/1950, Tổng thống Mỹ Truman đến đảo Wake để họp nhanh với MacArthur. CIA Hoa Kỳ trước đây có cho Truman biết rằng việc CHND Trung Hoa nhảy vào cuộc chiến là “không thể nào”.

MacArthur cũng cho rằng ít có khả năng xảy ra một cuộc chiến với Trung Hoa. MacArthur ước tính Trung Hoa có vòng quanh 30 vạn quân tại Mãn Châu với khoảng từ 10 đến 12 vạn quân dọc theo sông Áp Lục; phân nửa quân số đó có thể vượt qua sông Áp Lục. Nhưng Trung Quốc lại không có lực lượng không quân để trợ chiến cho bộ binh, MacArthur nói không nghĩ ra Bành Đức Hoài sẽ chuyển quân bằng cách nào, vì thế “nếu Trung Quốc miễn cưỡng tràn xuống Bình Nhưỡng thì sẽ có một cuộc tàn sát lớn nhất đối với chúng.” MacArthur nhận định.

CIA cũng đồng tình với phân tích của danh tướng MacArthur và cho rằng cho dù Bành Đức Hoài có chuyển quân cách nào thì cũng không thể nhanh bằng tin tức tình báo của họ. CIA trấn an rằng họ đang làm chủ cuộc chiến tranh thông tin và tình hình biên giới Trung – Triều vẫn luôn nằm trong lòng bàn tay họ.

Trung Quốc đông chinh kháng Mỹ viện Triều

Ngày 8/10/1950, ngày hôm sau khi quân đội Hoa Kỳ vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên và trực tiếp xâm phạm đến lãnh thổ Trung Quốc, Mao Trạch Đông phát lệnh cho danh tướng Bành Đức Hoài bí mật tập kết quân đội chủ lực và bộ đội đặc chủng, điều quân đến sông Áp Lục với sự phụ tá của hai tướng Trần Canh và Đặng Hoa, chuẩn bị sẵn sàng để vượt sông.

Bành Đức Hoài, 1 trong 10 đại nguyên soái khai quốc của CHND Trung Hoa, được nhiều người nhận định là “đệ nhất danh tướng thời Dân Quốc”.

Năm 16 tuổi ông đã dấn thân vào con đường binh nghiệp, đi lính cho một lực lượng quân phiệt ở tỉnh Hồ Nam. Khi Quốc dân đảng thảo phạt và sáp nhập các nhóm quân phiệt đầu hàng ở Hồ Nam thì Bành Đức Hoài cũng theo về và nhanh chóng thăng tiến nhờ thực tài, tuy nhiên tài năng quân sự của ông không được tin dùng trọn vẹn mà còn bị đố kỵ bởi các sĩ quan tham nhũng khác của Quốc dân đảng.

Về sau, trong thời kỳ Quốc – Cộng hợp tác, ông kết giao với Mao Trạch Đông và Chu Đức, được hai người mời vào Đảng Cộng Sản Trung Quốc.

Sau khi gia nhập Đảng Cộng Sản, Bành Đức Hoài nhanh chóng thể hiện tài lực hơn người và mau chóng trở thành lãnh đạo cấp cao ở khu Xô Viết Giang Tây, sau trở thành thống lĩnh của Bát Lộ quân.

Là một người từng phục vụ trong 3 lực lượng chính trị quân sự khác biệt nên có thể nói Bành Đức Hoài là một vị tướng dày dặn kinh nghiệm chiến trường, thân trải trăm trận vào sinh ra tử khắp Trung Quốc.

Ông được nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu quân sử đánh giá là một trong những đại danh tướng tài năng nhất trong lịch sử cận đại Trung Quốc, tề danh với những tên tuổi lớn của nhà Thanh như Lý Hồng Chương, Tăng Quốc Phiên, hay những danh tướng của Thái Bình Thiên Quốc, và là danh tướng tài năng “độc nhất vô nhị” (có một không hai) trong lịch sử hiện đại Trung Quốc.

Bành nguyên soái chỉ huy chiến dịch Bách Đoàn đại chiến (1940) trong chiến tranh Trung – Nhật.

Trần Canh là một tướng tài trí lưỡng toàn, phục vụ cho 3 quân đội khác nhau và có cùng hoàn cảnh xuất thân như Bành Đức Hoài, năm 13 tuổi ông đã đầu quân cho một quân phiệt trong vùng, được kết nạp vào Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1922, ông phục vụ nằm vùng trong Quân đội cách mạng quốc dân của Quốc dân đảng được 6 năm. Khi bị phát hiện, ông liền đào thoát ra vùng giải phóng Giang Tây rồi chính thức hoạt động trong hàng ngũ Cộng Sản từ đây.

Là một trong những bằng hữu lâu năm của chủ tịch Hồ Chí Minh ở Trung Quốc trong thời gian hai người cùng hợp tác hoạt động cách mạng ở đây, Trần Canh 2 lần sang Việt Nam tham mưu cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Biên giới năm 1950 (Bataille de la RC 4) và chiến dịch Điện Biên phủ năm 1954. Sau này, ông thành lập Học viện Kỹ thuật Quân sự quân Giải phóng Nhân Dân Trung Quốc ở thành phố Cáp Nhĩ Tân và được giao nhiệm vụ quản lý dự án sản xuất vũ khí hạt nhân.

Sau khi từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trở về nước sau chiến dịch Biên giới 1950 trong chiến tranh Pháp – Việt, ông lập tức được giao nhiệm vụ phụ tá Bành Đức Hoài tiến hành cuộc chiến tranh kháng Mỹ viện Triều.

Đặng Hoa là một tướng tài, vào tháng 7/1951, Đặng được Mao Trạch Đông chọn thay thế nguyên soái Bành Đức Hoài đi đàm phán với Mỹ để kết thúc chiến tranh, sau thất bại của các cuộc đàm phán, Đặng đã thiết kế chiến dịch Nam phạt thứ 6 và trình lên chủ tịch Mao Trạch Đông, và được Mao Trạch Đông thông qua.

Khi các lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ đứng đầu phát động chiến dịch Tổng tấn công mùa thu, Đặng đã chỉ huy quân Trung Quốc giành thắng lợi lớn.

Sau khi Bành Đức Hoài trở về Trung Quốc vì vấn đề sức khỏe, năm 1952, Đặng Hoa cùng với Trần Canh giữ chức tư lệnh và ủy viên chính trị của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, và chỉ huy cuộc phản công mùa thu năm 1952, dẫn đến việc ký Hiệp định đình chiến Triều Tiên năm 1953.

Từ trái sang phải: Trần Canh, Bành Đức Hoài, Đặng Hoa, bộ ba tướng giỏi của Trung Quốc đã hoạt động ăn ý với nhau trong Chiến tranh Triều Tiên.

Lúc này, ở Bắc Triều Tiên, quân đội Mỹ mặc dù đã để cho Kim Nhật Thành vượt thoát vòng vây ở Bình Nhưỡng và đào thoát lên phía Bắc, nhưng về cơ bản, quân Mỹ đã xâm chiếm, bình định và kiểm soát được hầu hết lãnh thổ Bắc Triều Tiên sau khi đánh chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng.

Tại Trung Quốc, trong thời gian Bành Đức Hoài chờ lệnh vượt biên giới thì Mao Trạch Đông đang cầu viện và tìm cách thuyết phục Liên Xô vào cuộc. Mao Trạch Đông cho rằng Mỹ đánh Trung Quốc xong rồi sẽ đến Liên Xô.

Tuy nhiên, sự giúp đỡ của Liên Xô chỉ giới hạn cung cấp yểm trợ bằng không quân không quá 60 dặm Anh (100 km) từ mặt trận. Dù vậy, các phi cơ Mig-15 hiện đại của Nga là một sự thách thức nghiêm trọng đối với quân lực Hoa Kỳ. Tại một khu vực có biệt danh là “Hành lang Mig”, các phi cơ của Nga giữ ưu thế trên không phận địa phương hơn đối thủ với các phi cơ F-80 do Hoa Kỳ chế tạo như Lockheed F-80 Shooting Stars cho đến khi các phi cơ F-86 (North American F-86 Sabre) được khai triển.

Người Trung Hoa rất bất bình trước việc giúp đỡ dè dặt, thiếu nhiệt tình của Liên Xô vì họ đinh ninh rằng họ đã được hứa cung ứng yểm trợ không lực toàn diện. Hoa Kỳ biết rõ vai trò của Liên Xô nhưng vẫn giữ im lặng để tránh leo thang chiến tranh.

Quân đội Trung Quốc bước vào cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ ngày 25/10/1950, ban đầu với 27 vạn quân (sau này trong thời điểm cao nhất là 70 vạn quân, tổng số quân tham chiến là gần 1 triệu người), dưới quyền tổng tư lệnh của danh tướng Bành Đức Hoài khiến cho Mỹ bị bất ngờ vì không lường trước được Trung Hoa có thể huy động mức độ quân số đông đảo đến như vậy ngay từ đầu, trái với mọi dự tính của danh tướng MacArthur và CIA.

MacArthur chỉ tính đến những đơn vị Trung Hoa ở gần biên giới Triều Tiên, ông ta không ngờ Bành Đức Hoài lại tập trung đại quân một cách bí mật và nhanh chóng đến vậy. CIA cũng không ngờ khả năng bảo mật thông tin với công nghệ lạc hậu của tình báo quân đội Trung Quốc lại hiệu quả đến như thế.

Trong cuộc đấu trí quân sự ngoạn mục giữa hai đại danh tướng, MacArthur đã thua Bành Đức Hoài ván này, sau khi đã chiến thắng Kim Nhật Thành trong “hiệp 1”.

Tuy nhiên, quân đội nhà nghề Hoa Kỳ, vốn từng vào sinh ra tử trên khắp chiến trường thế giới trong Thế Chiến II, với vũ khí cá nhân tốt hơn, binh sĩ thao luyện kỹ lưỡng, kỹ năng chiến đấu cá nhân cao và khả năng tác chiến tập thể tốt, vũ khí chiến lược mạnh và chiến thuật hiện đại, nên sau bất ngờ ban đầu họ đã lập tức trở về trạng thái bình tĩnh và nhanh chóng giành lại ưu thế.

Sau những vụ đụng độ sau đó, Bành Đức Hoài thấy quân mình bị yếu thế, hao tổn nhiều sinh lực và thất bại trong những trận giáp chiến xáp lá cà khi những quân lính người Hoa nhỏ con, gầy ốm phải đánh xáp lá cà trong một phạm vi hẹp với những chiến binh người Mỹ cao to, lực lưỡng với vũ khí cá nhân tốt hơn nhiều, nên đã quyết định rút lui vào rừng núi.

Các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc lại xem sự rút lui của này như là một dấu hiệu yếu thế và đánh giá sai lầm trầm trọng khả năng tác chiến của Giải phóng quân Trung Quốc. Thế nên các lực lượng Hoa Kỳ tiếp tục tiến công về sông Áp Lục không quan tâm nhiều đến những lời cảnh cáo của Trung Hoa.

Tình báo Hoa Kỳ sơ sài trong suốt giai đoạn này vì nhiều lý do, đã hoạt động không hiệu quả tại Bắc Triều Tiên cũng như đã từng không hữu hiệu tại Nam Triều Tiên trong những ngày có cuộc bao vây tại Vành đai Pusan.

Lính Trung Quốc hành quân bằng cách đi bộ và ngủ trong rừng nên giảm thiểu tối đa sự phát hiện của đối phương. Trong một trường hợp có ghi chép kỹ càng, một quân đoàn của Trung Quốc gồm có ba sư đoàn hành quân bằng chân đất từ An Tung ở Mãn Châu, phía Bắc cách sông Áp Lục khoảng 286 dặm (460 km) đến nơi tập kết tại Triều Tiên trong khoảng một thời gian dài từ 16 đến 19 ngày. Một sư đoàn của quân đoàn này hành quân vào ban đêm trên những con đường núi ngoằn ngoèo, trung bình đi được 18 dặm (29 km) một ngày trong vòng 18 ngày.

Cuộc hành quân trong ngày bắt đầu từ sau khi chập tối lúc 19 giờ và kết thúc lúc 3 giờ sáng hôm sau. Những phương án trú ẩn chống phi cơ phải hoàn thành trước 5 giờ 30 sáng. Tất cả mọi người, thú vật và các trang bị được giấu đi hay ngụy trang. Trong ban ngày chỉ có các nhóm trinh sát được ngụy trang di chuyển về phía trước để chọn lựa khu đóng quân ngoài trời của ngày hôm sau. Khi các đơn vị của Trung Hoa bắt buộc phải hành quân vào ban ngày vì bất cứ lý do gì, họ luôn tuân thủ lệnh dừng lại ngay tại chỗ và không cử động khi có phi cơ xuất hiện trên đầu. Các sĩ quan có quyền bắn bỏ bất cứ binh sĩ nào vi phạm lệnh này.

Cuối tháng 11, quân Trung Hoa đánh vào phía Tây, dọc theo sông Chongchon, và hoàn toàn tràn ngập một số sư đoàn Hoa Kỳ và thành công gây một đòn chí tử vào sườn các lực lượng còn lại của các lực lượng đồng minh Liên Hiệp Quốc. Sự bại trận của Quân đoàn 8 Hoa Kỳ tạo nên một cuộc rút lui dài nhất của một đơn vị quân sự Hoa Kỳ trong lịch sử. Ngày 5 tháng 12, Trung Quốc chiếm được thủ đô Bình Nhưỡng.

Tại miền Đông, trong trận Hồ nước Chosin, một đơn vị 3 vạn người của Sư đoàn 7 Bộ binh Hoa Kỳ cũng chưa chuẩn bị kịp cho những cuộc tấn công chiến thuật của quân đội Trung Quốc, chẳng bao lâu Mỹ bị bao vây, mặc dù cuối cùng họ phá được vòng vây nhưng bị thương tổn khoảng 15.000 quân. Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ vốn rất thiện chiến đã bị đánh tan tác tại trận này và phải rút lui, tuy nhiên họ cũng đã gây thiệt hại nặng nề cho 6 sư đoàn CHND Trung Hoa.

Trong khi các binh sĩ Trung Hoa ban đầu thiếu yểm trợ của hỏa lực nặng và vũ khí bộ binh hạng nhẹ, chiến thuật của họ nhanh chóng điều chỉnh thích hợp cho sự bất lợi này như Bevin Alexander có giải thích trong cuốn sách của ông có tựa đề là “How Wars Are Won” (Cách thế nào để thắng các cuộc chiến tranh):

“Phương cách thông thường là xâm nhập các đơn vị nhỏ của địch từ một trung đội 50 người đến một đại đội 200 người, bằng cách phân tán thành nhiều nhóm riêng lẻ. Trong lúc một đội cắt đường rút lui của người Mỹ, các đội khác đánh thẳng cả mặt trước và hai bên sườn trong các cuộc tiến công phối hợp nhịp nhàng. Các cuộc tiến công tiếp tục vào các phía cho đến khi những người phòng thủ bị tiêu diệt hoặc bắt buộc phải rút lui. Người Trung Hoa bò lên phía trước đến sườn mở nơi đóng chốt của trung đội kế tiếp và lặp lại chiến thuật này.”

Roy Appleman làm sáng tỏ hơn các chiến thuật ban đầu của Trung Quốc như sau:

“Trong giai đoạn đầu tiến công, các lực lượng bộ binh thiện chiến nhẹ đã thực hiện các cuộc tấn công của Trung Hoa, nói chung không được yểm trợ với bất kỳ loại vũ khí hạng nặng nào ngoài súng cối (mortars). Các cuộc tấn công đã chứng minh rằng binh sĩ Trung Hoa là những chiến binh có kỷ luật và được huấn luyện kỹ lưỡng, và đặc biệt lão luyện trong chiến đấu về đêm. Họ có tài về nghệ thuật ngụy trang. Các đội trinh sát rất thành công đáng kể trong việc phát hiện các vị trí của các lực lượng Liên Hiệp Quốc. Họ hoạch định các cuộc tấn công vào phía sau lưng của các lực lượng này, cắt đường rút lui và đường tiếp vận của quân địch, và rồi sau đó xung trận đánh vào mặt trước và bên sườn để kết thúc trận chiến. Họ cũng áp dụng một chiến thuật gọi là Hachi Shiki tạo thành một đội hình chữ V mà họ để cho quân địch di chuyển trong đó; hai cạnh của chữ V sau đó được khép lại quanh quân địch trong khi đó một lực lượng khác di chuyển phía dưới miệng chữ V để đón chặn bất cứ lực lượng nào cố giải vây cho đơn vị bị bao vây. Các chiến thuật như thế của Trung Quốc đã được sử dụng với những thành công to lớn tại Onjong, Unsan, và Ch’osan, nhưng chỉ thành công một phần tại Pakch’on và Ch’ongch’on.”

Lực lượng Hoa Kỳ tại vùng Đông Bắc Triều Tiên, từng tiến công chớp nhoáng chỉ một vài tháng trước đây, bị bắt buộc phải nhanh chân hơn nữa rút về miền Nam để hình thành một vành đai phòng thủ quanh thành phố hải cảng Hungnam (Hưng Nam) nơi mà sau đó một cuộc di tản lớn được thực hiện cuối tháng 12 năm 1950.

193 lượt tàu chở các quân nhân Mỹ và trang thiết bị đã rời bến di tản khỏi bến cảng Hungnam. Khoảng 10 vạn binh sĩ, 17.500 xe các loại, và 350.000 tấn tiếp liệu được tàu chở đến Pusan trong vòng trật tự. Khi họ đã bỏ đi, Mỹ đã thiêu hủy, san bằng thành phố, và phá hủy tất cả không cho quân đội Trung Quốc sử dụng. Hành động tàn bạo này đã khiến nhiều dân lành trở thành vô gia cư và không có nơi trú thân trong mùa đông, làm nhiều thường dân phải chết cóng.

Tháng giêng năm 1951, Bành nguyên soái lại đánh mạnh trong “Đệ tam chiến dịch” (còn được biết với tên gọi “Cuộc tổng tiến công mùa đông” trong sử liệu phương Tây và “Nam phạt lần thứ 3” trong sử liệu Trung Quốc). Quân Trung Hoa sử dụng lại các chiến thuật trước đây của họ là tấn công chủ yếu vào ban đêm với cách đánh thăm dò từ các vị trí xa mặt trận theo sau là một đợt xung phong với số lượng quân áp đảo, và dùng kèn, cồng chiêng để liên lạc và đánh lạc hướng quân Mỹ.

Trung Quốc kết hợp giữa chiến thuật biển người (nhân hải), biển hỏa lực (hỏa hải), tiền pháo hậu xung, nghi binh, đánh úp, đánh trộm ban đêm, và quấy rối thường xuyên, tập kích trong khi lực lượng Liên Hiệp Quốc đang ngủ ban đêm, dùng loa la hét và kêu gọi đầu hàng, quấy rối không cho các lực lượng LHQ ngủ, nghỉ.

Mặc dù không thành công trong các mưu kế dụ địch vào hiểm địa phục binh, nhưng các chiến thuật tác chiến khác của Bành Đức Hoài đã phát huy hiệu quả tốt. Quân đội Mỹ không có thuốc trị cho những chiến thuật này, và sức kháng cự của họ sa sút nên họ rút lui nhanh về phía Nam. Thủ đô Hán Thành bị bỏ lại và bị quân đội Trung Quốc chiếm đóng vào ngày 4/1/1951.

Như vậy, cho đến thời điểm này, cả hai thủ đô ở Bắc Nam Triều Tiên đều do Trung Quốc chiếm giữ, và cuộc chiến tranh Triều Tiên đã hoàn toàn được Trung Quốc tiếp quản và phụ trách, đại nguyên soái Bành Đức Hoài đảm nhiệm vai trò chỉ huy, và quân đội Trung Quốc đã đảm nhiệm vai trò chiến đấu trực tiếp trên sa trường, còn tàn quân Triều Tiên thì được đưa ra bảo vệ những bến cảng và miền duyên hải.

Kim Nhật Thành phật lòng vì điều này và đề nghị Mao Trạch Đông cho các đơn vị còn lại của Triều Tiên được tham chiến, Mao Trạch Đông liên lạc hỏi ý Bành Đức Hoài, Bành từ chối vì cho rằng quân đội Triều Tiên được các tướng tá xuất thân Hồng quân huấn luyện theo kiểu Liên Xô, khác nhiều với lý luận và lý thuyết quân sự của Trung Quốc, nên không thể chiến đấu hỗn hợp, việc chỉ huy sẽ bị loạn.

Hơn nữa, ông cho rằng Mỹ dù đang thua vẫn là một đối thủ quá mạnh để có thể chủ quan khinh địch. Quân đội Trung Quốc được tinh luyện theo cách riêng của họ Bành, là một đội tinh binh đang thắng thế, “phụ tử chi binh, huynh đệ chi binh” (quân đội như cha con, anh em) đoàn kết tác chiến hết sức ăn ý và kỷ luật “quân pháp bất vị thân” (quân luật không thiên vị thân tình), nếu như đưa binh lính Triều Tiên vào chiến đấu theo cách hỗn hợp thì sẽ loạn.

Khó khăn thêm gia tăng cho Quân đoàn 8 Hoa Kỳ khi tướng Walker bị tử trận. Trung tướng Matthew Ridgway, một người hùng nhảy dù trong Thế Chiến II lên thay thế và nhanh chóng từng bước tăng cường sĩ khí của Quân đoàn 8 vốn đang kiệt quệ và sa sút trong cuộc rút chạy.

Tuy nhiên, tình thế quá bi quan đến nỗi tướng Douglas MacArthur to tiếng hăm dọa sử dụng vũ khí hạt nhân chống Bình Nhưỡng và Bắc Kinh, dọa sẽ biến Mãn Châu thành “Hiroshima, Nagasaki của Trung Hoa”, những lời đe dọa này của tướng MacArthur gây nhiều báo động quốc tế.

Liên Xô và Trung Quốc lập tức lên án MacArthur, nhắc lại việc Mỹ dội bom nguyên tử xuống Nhật và dọa mở một tòa án quốc tế vì tội ác chiến tranh diệt chủng và tội ác chống loài người. Sau này, những người lãnh đạo Hoa Kỳ nói rằng đó chỉ là chiến tranh tâm lý, chứ MacArthur không có ý định sử dụng bom hạt nhân, và đó chỉ là ý kiến riêng của cá nhân MacArthur chứ không phải là quan điểm chung của chính phủ.

Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục tháo lui cho đến khi họ tới phòng tuyến chạy dài từ phía Nam Suwon ở miền Tây, Wonju ở giữa, và phía Bắc Samchok ở miền Đông là nơi mặt trận được ổn định. Quân đội Trung Hoa đã bỏ xa đường tiếp vận của họ và bắt buộc phải lùi lại.

Quân đội Trung Quốc gặp khó khăn khi tiến ra xa khỏi Hán Thành vì họ đang ở cuối đường vận chuyển tiếp liệu, tất cả lương thực và đạn dược phải được vận chuyển vào ban đêm bằng chân hoặc xe đạp từ sông Áp Lục.

Cuối tháng giêng, sau khi nhận thấy các phòng tuyến phía trước lực lượng Hoa Kỳ bị bỏ hoang, tướng Ridgway ra lệnh tiến hành thám thính mà sau đó biến thành một cuộc tấn công toàn diện có tên gọi là “Operation Roundup” (Chiến dịch Bố ráp).

Chiến dịch được hoạch định tiến hành từng bước một, lợi dụng ưu thế hỏa lực trên mặt đất và nhất là trên không của Mỹ. Vào lúc kết thúc Chiến dịch Bố ráp vào đầu tháng hai, quân Mỹ đã tiến tới sông Hán và tái chiếm Wonju.

Trung Quốc phản công vào giữa tháng hai bằng cuộc tiến công giai đoạn 4 từ Hoengsong ở miền Trung chống các vị trí của Quân đoàn 9 Hoa Kỳ quanh Chipyong-ni. Các đơn vị của sư đoàn 2 Bộ binh Hoa Kỳ, gồm có tiểu đoàn Pháp tại Triều Tiên đã đánh trả một cuộc bao vây ngắn ngủi nhưng dữ dội và cuối cùng phá vỡ cuộc tiến công này. Trong trận đánh này, Mỹ và đồng minh đã học được cách đối phó với các chiến thuật tấn công của Trung Quốc và có thể giữ vững trận địa, do đó họ đã chống trả rất dũng cảm.

Chiến dịch Bố ráp được theo sau trong hai tuần cuối của tháng hai năm 1951 bằng Chiến dịch Sát thủ (Operation Killer) do Quân đoàn 8 của Hoa Kỳ đảm nhiệm, họ chiến đấu rất hung hãn. Đây là một cuộc tiến công toàn diện ngang qua mặt trận, lần nữa được hoạch định tăng cường tối đa hỏa lực với mục đích gây thiệt hại nặng nề cho các quân đoàn Trung Hoa. Vào cuối Chiến dịch Sát thủ, Quân đoàn 1 Hoa Kỳ đã tái chiếm lại được tất cả các lãnh thổ phía Nam sông Hán, trong khi Quân đoàn 9 tái chiếm Hoengsong, đánh bại Bành Đức Hoài và quân Trung Quốc.

Ngày 7 tháng 3 năm 1951, Quân đoàn 8 Hoa Kỳ lại thọc mạnh về phía trước trong chiến dịch Ripper, và vào ngày 14 tháng 3 họ đã đẩy lui quân đội Trung Hoa ra khỏi thủ đô Hán Thành (Seoul), đây là lần thứ tư trong một năm thành phố này đổi chủ. Hán Thành ở trong cảnh hoang tàn đổ nát; dân số của thành phố trước chiến tranh là 1,5 triệu người đã giảm xuống còn 200.000 người và thiếu thực phẩm trầm trọng.

Sau khi đánh bại quân Trung Hoa và chiếm lại Hán Thành, gây tổn thương nặng nề cho Trung Quốc, Douglas MacArthur trở nên kiêu ngạo, lớn lối, cực đoan hơn, phát biểu thêm nhiều lộng ngôn kém ý thức chính trị, gây hại cho hình ảnh nước Mỹ và chính phủ, sự khác biệt, bất đồng, mâu thuẫn, bất mãn với chính quyền trung ương Mỹ và tổng thống Truman ngày càng sâu, không muốn nghe lệnh chính phủ trung ương mà chỉ muốn độc đoán tự quyết định, có dấu hiệu lộng quyền, trở thành một vị tướng bất trị, nên đã bị tước quyền tư lệnh bởi Truman ngày 11 tháng 4 năm 1951 vì tội “bất tuân thượng lệnh”.

Quyết định bất ngờ và khó hiểu này của tổng thống Mỹ ngay trong lúc quân Mỹ đang trên đà chiến thắng đã gây tranh cãi rất nhiều và gây ra một làn sóng phản đối và mâu thuẫn nội bộ trong chính quyền và giới chức quân sự Hoa Kỳ. Cuộc đụng độ lịch sử giữa 2 vị tướng lừng danh đã trở thành một quả đắng cho tướng MacArthur.

Sau khi MacArthur bị tước quyền hành và bắt phải về nước, Bành Đức Hoài vui mừng ra mặt, nói với các đồng chí của ông đại ý: Nhạc Phi đã bị hoàng đế triệu về, để xem cách nào địch thắng được ta.

Nhưng Bành Đức Hoài đã vui mừng quá sớm, sau khi loại được MacArthur, Bành và giới quân sự Trung Quốc trở nên chủ quan.

Tư lệnh tối cao mới, tướng Ridgway, cũng là một người có nhiều quân công, chiến tích trong Thế chiến II chống phe Trục, biết cách động viên và thu phục lòng trung thành, cống hiến của quân đội, được nhiều chuyên gia Hoa Kỳ xem là một nhà quân sự có tài ngầm (underate), thực tài có lẽ không thua kém MacArthur bao nhiêu. Ông ta tiến hành củng cố quân đội Mỹ và các cấp dưới để chuẩn bị cho một loạt các cuộc phản công hiệu quả. Tư lệnh Quân đoàn 8 được chuyển qua cho tướng James Van Fleet thống lĩnh.

Tướng Mỹ Matthew Ridgway, viên Tổng tư lệnh mới thay thế Douglas MacArthur.

Một loạt các cuộc tấn công sau đó từ từ đẩy lui quân đội Trung Quốc như các chiến dịch Courageous và Tomahawk, một cuộc công kích kết hợp giữa lục quân và không quân đã vây hãm quân đội CHND Trung Hoa giữa Kaesong và Seoul. Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thừa thắng xông lên cho đến khi họ tới được phòng tuyến Kansas, cách vĩ tuyến 38 một khoảng mấy dặm về phía Bắc.

Tuy nhiên quân đội Bành Đức Hoài khó thể bị đánh bại. Tháng tư năm 1951 họ mở đợt tiến công giai đoạn năm. Đây là một nỗ lực chính có sự tham dự của 3 quân đoàn, tổng cộng lên đến 70 vạn quân. Quả đấm thôi sơn giáng thẳng vào Quân đoàn 1 Hoa Kỳ nhưng sự chống trả dũng mãnh trong các trận đánh tại sông Imjin và Kapyong đã làm chậm lại tiến trình, quân Trung Quốc bị chặn đứng ở phòng tuyến phía Bắc Seoul.

Một cuộc tiến công của Trung Quốc sau đó ở Trung phần Triều Tiên, chống Quân đoàn 10 Hoa Kỳ và lực lượng Liên Hiệp Quốc vào ngày 15 tháng 5 cũng đạt được những thành công ban đầu, nhưng vào 20 tháng 5 cuộc tấn công phải ngừng lại. Quân đoàn 8 Hoa Kỳ phản công mạnh và đến cuối tháng 5 thì chiếm lại phòng tuyến Kansas. Mỹ và Liên Hiệp Quốc quyết định dừng lại ở phòng tuyến Kansas, nằm ở phía Bắc vĩ tuyến 38.

Lãnh thổ đổi chủ trong phần đầu của cuộc chiến cho đến khi mặt trận được ổn định.

Phần còn lại của cuộc chiến bao gồm chút ít sự thay đổi về lãnh thổ, các cuộc oanh tạc tầm mức rộng lớn vào lãnh thổ CHDCND Triều Tiên và dân cư của họ, và các cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài bắt đầu từ 10 tháng 7 năm 1951 tại Kaesong giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Thậm chí trong suốt các cuộc thương thuyết hòa bình, chiến sự vẫn tiếp tục, hai bên vẫn “vừa đánh vừa đàm”.

Mao Trạch Đông cố mở các chiến dịch quân sự nhằm thử quyết tâm của Truman xem có dám tiếp tục cuộc chiến hay không. Các cuộc đụng độ quân sự chính yếu trong giai đoạn này là những hành động quanh lòng chảo phía đông như Bloody Ridge và Heartbreak Ridge năm 1951, các trận đánh như Trận Old Baldy ở giữa và Trận Hook ở phía Tây trong suốt năm 1952–53, Trận Đồi Eerie năm 1952, và Trận Đồi Pork Chop năm 1953.

Tháng 10 năm 1951, Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch Cảng Hudson với ý định thiết lập khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Một số phi cơ B-29 thực hiện các phi vụ tập ném bom giả từ Okinawa đến Triều Tiên mang theo các quả bom hạt nhân “hình nộm” hoặc các loại bom thông thường hạng nặng. Chiến dịch được điều hợp từ Căn cứ Không quân Yokota tại Nhật Bản.

Cuộc tập trận này có ý định thử chức năng thật sự của tất cả các hoạt động sẽ cần dùng trong một tấn công bằng vũ khí hạt nhân, bao gồm việc lắp ráp vũ khí và thử nghiệm, hướng dẫn, kiểm soát mặt đất về mục tiêu ném bom. Kết quả cho thấy bom hạt nhân không hiệu quả như là tiên đoán bởi vì việc phát hiện số đông lực lượng địch kịp thời thì quả là hiếm hoi.

Việc này đã làm cho dư luận thế giới lên án Mỹ. Sau này các sử gia vẫn tranh cãi liệu đây là ý định thật của Mỹ hay chỉ là trò chơi tâm lý chiến để răn đe Trung Quốc, Liên Xô, và khối cộng sản.

Trong sách “The Origins of the Korean War” xuất bản vào các năm 1981, 1990, sử gia Mỹ Bruce Cummings cho biết rằng trong một cuộc họp báo ngày 30/11/1950, những lời ám chỉ tấn công bằng vũ khí hạt nhân của Tổng thống Truman là lời đe dọa dựa trên kế hoạch bất ngờ sử dụng bom hạt nhân, chứ không phải lỡ lời như nhiều người lầm tưởng. Vào ngày 30/11/1950, Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược của Không quân Hoa Kỳ được lệnh gia tăng khả năng của mình, và sự gia tăng này gồm có khả năng nguyên tử.

Tướng Mỹ Mark Clark tiếp quản vai trò Tổng Tư lệnh liên quân vào ngày 12/5/1952, kế vị Tướng Matthew Ridgway.

Ngày 29/11/1952, tổng thống mới đắc cử là Dwight D. Eisenhower đã thực hiện lời hứa lúc tranh cử là đến Triều Tiên để tìm ra giải pháp để kết thúc chiến tranh trong danh dự. Với việc chấp thuận lời đề nghị ngừng bắn của Ấn Độ, một cuộc ngừng bắn được thiết lập vào ngày 27/7/1953 vào thời điểm tuyến đầu mặt trận quay trở lại quanh vĩ tuyến 38, và vì vậy một vùng phi quân sự được thiết lập quanh đó, được quân đội Trung Quốc phòng thủ một phía và phía bên kia là quân đội Hoa Kỳ.

Nơi có các cuộc thương thảo hòa bình, Khai Thành (Kaesong), cố đô của Triều Tiên, là phần đất của Hàn Quốc trước khi chiến sự bùng nổ nhưng nay là một thành phố đặc khu của CHDCND Triều Tiên. Nhiều phần lãnh thổ khác trước chiến tranh thuộc Bắc Triều Tiên, sau chiến tranh lại thuộc Nam Triều Tiên.

Ngày 27/7/1953, Trung Quốc, Triều Tiên và Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Quốc (Mỹ) ký hiệp định đình chiến ở Bàn Môn Điếm (Panmunjom), Hàn Quốc từ chối ký. Hiệp định đình chiến tạo ra khu phi quân sự (DMZ) với bán kính 2.200 m về mỗi bên tính từ điểm trung tâm. DMZ được tuần tra bởi quân đội hai bên cho đến nay.

Bành Đức Hoài ký hiệp định đình chiến năm 1953, tại Bàn Môn Điếm, ngày nay ở thành phố Khai Thành, Bắc Triều Tiên.

Tội ác chiến tranh

Theo nhiều người Mỹ, phương Tây, và Hàn Quốc thừa nhận, Hoa Kỳ và Hàn Quốc đã hành quyết tập thể hàng chục ngàn tù nhân Cộng sản và những người thân Cộng trong những sự kiện như vụ tàn sát tập thể tù nhân chính trị của nhà tù Daejeon, thảm sát Lão Cân Lý (No Gun Ri massacre) và cuộc thảm sát tập thể đẫm máu trong vụ “Nổi dậy Cheju”.

Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Nam Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là trên 100.000 nạn nhân, và xác chết của họ bị quăng vào các hố chôn tập thể. Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật, một hội đoàn phi chính phủ và hoạt động độc lập của những người yêu nước ở Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7.800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp bán đảo do quân đội Mỹ gây ra. Và những nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước, trong, và sau cuộc chiến. Trong nhiều trường hợp khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy, giết chết tất cả người trên cầu.

Trên đường thua chạy, Lý Thừa Vãn đã tiến hành bắt lính, sung quân cấp tốc và bắt buộc tất cả người dân chung quanh nhập ngũ ngay để bổ sung. Có lúc quân đội Mỹ được lệnh xem bất cứ lương dân Triều Tiên nào hiện diện gần mặt trận là thù địch, và được lệnh “vô hiệu hóa” (hạ sát) họ ngay lập tức.

Việc này đưa đến nhiều vụ thảm sát bừa bãi hàng ngàn dân thường Nam Triều Tiên bởi quân đội Hoa Kỳ, tại nhiều nơi, quân đội Mỹ – Hàn đem việc bắn giết thôn dân làm trò tiêu khiển, mà đỉnh cao là cuộc thảm sát No Gun Ri (Lão Cân Lý) trong đó nhiều người không có khả năng tự vệ – đa số là phụ nữ, trẻ con và người già – nhiều người phụ nữ và bé gái đã bị quân đội Hoa Kỳ hãm hiếp tập thể và sau đó giết chết. Nhiều thôn khác cũng thường xuyên bị không quân Hoa Kỳ rải bom lên nóc nhà. Năm 2007 và 2008, Hoa Kỳ, do sức ép từ báo chí truyền thông và nhiều tổ chức nhân đạo tìm hiểu sự thật ở Hàn Quốc, đã thừa nhận là có chính sách “ngăn chặn” thường dân tại nhiều nơi ở mặt trận ở nhiều thời điểm khác nhau.

Bắc Triều Tiên bị tàn phá nặng nề vì bom Mỹ, chỉ vài căn nhà còn đứng vững. Hơn 3,5 triệu người Triều Tiên bị chết trong cuộc tiến công của Mỹ, và một danh sách dài các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ đã được ghi nhận bao gồm cả việc sử dụng vũ khí sinh học, vũ khí hủy diệt hàng loạt và những cuộc tàn sát cư dân. Theo chuyên gia Michel Chossudovsky thuộc cơ quan Global Research, gần 30% dân số Bắc Triều Tiên đã chết dưới những đợt dội bom của Mỹ trong thập niên 1950.

Ngoài ra chính phủ các bên cũng tố cáo, cáo buộc, quy kết lẫn nhau về nhiều tội ác chiến tranh khác, tuy nhiên không có những bằng chứng rõ ràng. Hoa Kỳ cho rằng đã có một vụ thảm sát tại đồi 303, khi 41 tù binh của họ đã quân Kim Nhật Thành bắt giữ và xả súng máy thảm sát trong tư thế vẫn bị trói tay sau lưng trong trận Vành đai Phú Sơn.

Một bộ phận người dân Hán Thành vốn là ủng hộ viên, cảm tình viên, thiên cộng, hoặc chống Lý Thừa Vãn đã chạy theo quân đội Triều Tiên (vốn đang trên đường thua chạy) về Bắc, điều bất ngờ ngoài dự tính này đã làm cho cuộc rút lui đang có kỷ luật trở thành vô trật tự và ì ạch, chậm chạp vì phải lo cho dân. Tuy nhiên, Hàn Quốc và Hoa Kỳ lại gọi đây là sự cưỡng bức di cư, và xem đó là một trong những “tội ác chiến tranh” của Đảng lao động Triều Tiên.

Nhà thổ phục vụ lính Mỹ

Trong những năm 1950, kể từ khi Mỹ đóng quân ở Nam Triều Tiên đồng thời Bắc tiến xâm lược Bắc Triều Tiên, chính phủ thân Mỹ ở Nam Triều Tiên xem quân đội Mỹ như một cơ hội thu lợi về kinh tế mặc dù món lợi này được trả giá bằng hàng chục ngàn phụ nữ.

Khi quân đội Mỹ tới Nam Triều Tiên cũng là lúc các tấm biển chỉ đường mọc lên, chỉ dẫn tới các thị trấn Nam Triều Tiên hay còn gọi là các địa điểm “nghỉ ngơi và giải trí” (R&R).

Những nơi này nằm gần các trại lính lớn ở Hàn Quốc phục vụ cho “nhu cầu tiêu dùng” của binh lính Mỹ. ’’Nhu cầu tiêu dùng’’ này chính là tình dục của lính Mỹ.

Những thị trấn đồi trụy này không phải do tư nhân xây dựng để “làm ăn”, kiếm lợi, mà do chính các chế độ cầm quyền ở Hàn Quốc đã thiết lập để vừa phục vụ lính Mỹ vừa sinh lợi cho nền kinh tế.

Chính phủ Lý Thừa Vãn phát đăng ký cho tất cả gái điếm quân đội và thẻ đăng ký giúp họ ra vào những điểm R&R này. Giấy thông hành duy nhất mà một nam giới cần là một bộ quân phục Mỹ.

Cuối thập niên 1950, chính phủ Mỹ và chính phủ Hàn Quốc ký với nhau 2 hiệp nghị bất bình đẳng. Một là Hiệp ước phòng thủ chung, hiệp định này chính danh hóa sự có mặt của thực binh Mỹ ở Nam Triều Tiên, chính thức cho phép quân đội Mỹ đóng ở đây. Hiệp nghị cũng quy định các địa điểm R&R (phục vụ tình dục) sẽ được “cống nạp” cho lính Mỹ.

Năm 1988, lính Mỹ vẫn còn sử dụng các thị trấn Hàn Quốc này. Ngoài ra, các con số thống kế cho thấy có hơn 18.000 gái mại dâm Hàn phục vụ gần 5 vạn lính Mỹ đóng tại Hàn Quốc. Một số chuyên gia nói rằng ở đâu có lính Mỹ, ở đó sẽ có các nhà thổ do các chính phủ bản xứ tài trợ và ủng hộ.

Hai là hiệp nghị Status of Forces Agreement, theo thỏa thuận này, tòa án Hàn Quốc không có quyền xử binh lính Mỹ đang đóng quân và làm nhiệm vụ quân sự trên lãnh thổ Hàn Quốc, chỉ có tòa án binh Mỹ mới có quyền xử binh lính Mỹ.

Bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh

Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến tranh quy mô đầu tiên trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và đã gây thiệt hại nặng nề cho cả bán đảo Triều Tiên và các lực lượng Liên Hiệp Quốc.

Mặc dù Hàn Quốc trì trệ về kinh tế trong những thập niên sau chiến tranh, nhưng nhờ Mỹ tích cực đổ tiền vào viện trợ, đầu tư, giúp đỡ, Hàn Quốc sau đó đã được Mỹ và phương Tây giúp vực dậy nền kinh tế và hỗ trợ cho công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Ngược lại, họ phải ký với Mỹ một số hiệp định bất bình đẳng kể trên, chấp nhận thân phận chư hầu.

Kinh tế Triều Tiên thì cũng đã hồi phục và phát triển nhanh chóng sau chiến tranh và cho đến khoảng năm 1975 đã vượt qua nền kinh tế của Hàn Quốc. Tuy nhiên, nền kinh tế của Triều Tiên tăng trưởng chậm dần.

Ngày nay, do đòn cấm vận của Mỹ và phương Tây, chính sách đóng cửa, tự cô lập với thế giới bên ngoài, tự cung tự cấp, tự lực cánh sinh, bế quan tỏa cảng và nhiều sai lầm về chính sách, về thực hành, về công tác lãnh đạo, về mô hình thể chế, cơ chế chính trị, các thiết chế xã hội, cộng với thiên tai bão lụt, hạn hán mất mùa, nên nền kinh tế Triều Tiên đã sa sút, lương thực thiếu thốn, và hàng năm phải nhận viện trợ từ Trung Quốc, Nga, Việt Nam, và cả viện trợ gạo, lương khô từ các tổ chức thiện nguyện, nhân đạo Hàn Quốc thông qua cơ quan Food and Agriculture Organization (FAO) của Liên Hiệp Quốc để cứu đói trong khi nền kinh tế Hàn Quốc đã phát triển ưu việt.

Sau chiến tranh, Kim Nhật Thành bắt tay vào việc tái thiết đất nước vốn đã bị bom Mỹ và vũ khí sinh học Mỹ tàn phá nặng nề. Ông thực hiện kế hoạch “kinh tế quốc gia 5 năm”, tạo nên một nền kinh tế tập trung bao cấp với những “kế hoạch 5 năm”, với tất cả ngành công nghiệp đều là công hữu và tất cả nền công nghiệp được quốc hữu hóa. Quốc gia hình thành dựa trên nguyên lý chủ nghĩa quân bình và nền kinh tế dựa trên nhu cầu của công nhân và trí thức. Kinh tế tập trung vào công nghiệp nặng và sản xuất vũ khí. Về cơ bản, Bắc Triều Tiên đã mô phỏng mô hình Stalin ở Liên Xô. Cả hai bên Bắc – Nam đều duy trì một lực lượng vũ trang đông đảo để bảo vệ đường ngừng bắn năm 1953.

Chủ tịch Kim Nhật Thành và đại soái Bành Đức Hoài gặp lại năm 1955 khi Kim thăm Trung Quốc.

Giữa thập niên 1960, chủ tịch Kim Nhật Thành đã có những nỗ lực xâm nhập Nam Triều Tiên để chống Hàn Quốc. Những nỗ lực đó lên đến cực điểm khi Kim Nhật Thành cho các lực lượng sát thủ đặc biệt tấn công Nhà Xanh và ám sát tổng thống độc tài Phác Chính Hy, nhưng nhiệm vụ thất bại, không giết được Phác Chính Hy mà còn ngộ sát vợ ông ta.

Quân đội Triều Tiên có thái độ ngày càng quyết liệt đối với Hàn Quốc và quân đội Hoa Kỳ đồn trú ở gần giới tuyến quân sự, lôi kéo quân đội Mỹ vào những cuộc đấu súng quyết liệt dọc theo vùng phi quân sự. Vụ bắt giữ thủy thủ của tàu do thám USS Pueblo là một phần của nỗ lực này.

Theo sách “Phật giáo Đại Hàn, trước những thử thách lịch sử” của tác giả Trần Quang Thuận, do Tu viện Quảng Đức xuất bản năm 2004 ở Hoa Kỳ, chương 10, thì từ năm 1953 sau hiệp định đình chiến cho đến năm 1969, thì Bắc Triều Tiên đã gây ra 6.814 biến cố tại Nam Triều Tiên. Từ năm 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Từ 1970 đến 1977, 32.775 vụ. Bình Nhưỡng cho đào hầm xuyên qua ranh giới Bắc – Nam để đột nhập vào Nam. Ba đường hầm đã được khám phá vào năm 1974, 1975 và 1978. Hải quân Triều Tiên từ năm 1975 đến 1980 liên tục áp giải tàu đánh cá Hàn Quốc, nhiều cán binh Triều Tiên được đặc phái đến Hàn Quốc nằm vùng vào năm 1982, đa số đều bị lực lượng cảnh sát, mật thám của Hàn Quốc bắt giữ.

Tuy nhiên, thời gian về sau Triều Tiên đã gặp phải những khó khăn ngày càng tăng về kinh tế sau nhiều thập kỷ phát triển thành công. Trong thời kỳ Trung – Xô xung đột, do chống chủ nghĩa xét lại của Khrushchev và cho rằng ông ta đã phản lại đại nguyên soái Stalin, cộng với ơn cứu viện trong cuộc chiến tranh kháng Mỹ viện Triều, nên Triều Tiên đã đứng hẳn về phía Trung Quốc.

Nhưng Trung Quốc đã phạm phải sai lầm nghiêm trọng trong chính sách Đại Nhảy Vọt và nhiều sai lầm khác về chính sách, mô hình, nên không giúp được nhiều cho Triều Tiên. Sự bao vây cấm vận kinh tế và quân sự của các nước phe Mỹ, chính sách tự cô lập, bế quan tỏa cảng, sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết trong thời kỳ 1989-1991. Tất cả hiện tượng đó đã đẩy Triều Tiên vào thế cô lập, cộng với những thiên tai bão lũ gây thêm vô vàn khó khăn kinh tế cho nước này.

Một Triều Tiên trước đây có tốc độ công nghiệp hóa nhanh hơn, tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh thấp hơn, chất lượng sống cao hơn Hàn Quốc trong nhiều thập kỷ, đến những năm 1990 đã gặp vô số khó khăn xuất phát từ sự thiếu thốn đối tác thương mại sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ cấm vận, các trận bão lụt kéo dài. Người dân Triều Tiên gọi thời kỳ này là “Cuộc hành quân gian khổ”.

Dân chúng Triều Tiên thường xuyên lặp đi lặp lại rằng Triều Tiên sẽ được thống nhất trước sinh nhật lần thứ 70 của lãnh tụ Kim Nhật Thành năm 1982, và đã có những nỗi lo sợ từ Hàn Quốc rằng Kim Nhật Thành sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực lần thứ hai. Tuy nhiên, sự chênh lệch về kinh tế và thực lực quân sự giữa Bắc và Nam – nơi vẫn hiện diện gần 5 vạn quân đội Mỹ – vào thời kỳ đó khiến cho việc thống nhất bán đảo không thể diễn ra.

Tượng Bành Đức Hoài ở thành phố Đan Đông, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc, nhìn về sông Áp Lục. Tượng được coi là một biểu tượng của tình hữu nghị Trung – Triều. Triều Tiên xem ông là “đại ân công”, tượng được người Triều Tiên xây và tặng cho thành phố Đan Đông.

Tổng hợp theo Thiếu Long Texas