Chiến tranh Việt Nam và đại chiến Tam giác sắt

Sau khi quân Giải phóng mở chiến dịch tiến công ở miền Đông Nam Bộ, đánh thắng trận Bình Giã, về cơ bản đã làm phá sản chiến lược chiến tranh giai đoạn này của Mỹ. Đến đây, kế hoạch Staley-Taylor đã không còn hiệu quả. Hoa Kỳ bắt đầu đề ra và thực hiện một số quyết định chiến lược mới.

Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Thủy quân lục chiến Mỹ đổ quân xuống Đà Nẵng, kế hoạch Staley-Taylor chính thức chấm dứt. Chiến tranh Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn Mỹ kéo đại quân đến Việt Nam trực tiếp xâm lược với chiến thuật tác chiến Tìm và Diệt của Đại tướng tổng tư lệnh Westmoreland.

Đứng trước nguy cơ phá sản của chế độ thực dân mới và khả năng sụp đổ của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ ở miền nam Việt Nam, người Mỹ sau đó đã liên tục tăng cường viện binh cho quân đội viễn chinh ở miền nam Việt Nam nhằm đốc thúc cuộc chiến tranh xâm lược, thay đổi chiến lược chiến tranh ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Trong năm 1965, các sư đoàn 1 Bộ binh (được biết nhiều với tên “Anh cả đỏ” – The Big Red One), sư đoàn 1 Kỵ binh Không vận, Lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 101 Kỵ binh Không vận, Lữ đoàn 3, sư đoàn 25 Bộ binh (được biết nhiều với tên “Tia chớp nhiệt đới” – Tropical Light), trung đoàn 11 Kỵ binh Thiết giáp v.v. lũ lượt kéo vào miền Nam Việt Nam. Trong đó, sư đoàn Anh cả đỏ và Tia chớp nhiệt đới là hai trong những sư đoàn chủ lực thiện chiến nhất thế giới.

Hạm đội 7, hạm đội mạnh nhất của Hải quân Hoa Kỳ, được mệnh danh “chúa tể đại dương”, tiến vào Biển Đông, xâm phạm vùng biển của Việt Nam, để trợ lực cho các lực lượng xâm lược trên bộ. 7 vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, đảo Guam v.v., đều được sử dụng để hỗ trợ cho chiến trường Việt Nam.

Bị thất bại trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm, Mỹ đã chuyển sang cuộc chiến tranh cục bộ, kéo quân đội vào trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam và gây ra chiến tranh phá hoại rất ác liệt đối với miền Bắc.

Đại tướng William Westmoreland trong hồi ký A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân), do Doubleday xuất bản năm 1976, đã cho biết: “Tôi tin rằng nước Mỹ chưa bao giờ cho ra trận một lực lượng nào thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969”.

Hoa Kỳ còn áp lực được các quốc gia chư hầu (vassal states) khi đó như Hàn Quốc, Philippines, hay đồng minh như Australia, Thái Lan và New Zealand gửi quân đội đánh thuê cho Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đổi chác các lợi ích chính trị, quân sự, kinh tế. Lực lượng viễn chinh Mỹ cũng phát triển nhanh, đến cuối năm 1965 đã lên đến hơn 20 vạn quân.

Theo hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) do Daniel Ellsberg tung ra và Thời báo New York công bố của Bộ Quốc phòng Mỹ về Chiến tranh Việt Nam, được Việt Nam Thông Tấn Xã ấn hành một phần bằng tiếng Việt vào năm 1971 (Mỹ chính thức giải mật vào tháng 6 năm 2011), và nhà báo Pháp Giuglaris Marcel, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nhật Bản và vùng Viễn Đông, trong sách Việt Nam, le jour de l’escalade (Việt Nam, ngày đầu leo thang) do NRF xuất bản, thì Vecler, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara: “Không có lý do gì chúng ta lại không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta”.

Những nhân vật diều hâu trong giới cầm quyền Mỹ đã tin tưởng tuyệt đối rằng: “Cùng lắm trong vòng 18 tháng (cuối 1966), Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt Cộng và Hà Nội sẽ phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc nổi dậy nào cũng có thể bị tiêu diệt”.

Mỹ dù không muốn trực tiếp ra tay, nhưng trước tình thế bất lợi họ buộc phải xuất quân để ngăn chặn thế thua, từng bước phản công giành lại quyền chủ động và chuyển bại thành thắng. Việc đưa quân viễn chinh Mỹ vào chiến đấu trên quy mô lớn là không chỉ giới hạn ở việc cứu nguy sự sụp đổ của chế độ thực dân trá hình mà chính là để giành thắng lợi quyết định, nhanh chóng đảo lộn thế cờ. Theo đó, Mỹ đề ra kế hoạch 3 giai đoạn và dự định giành thắng lợi trong vòng hai năm rưỡi:

Giai đoạn 1: Chặn lại đà thất bại, triển khai nhanh lực lượng.

Giai đoạn 2: Phản công chiến lược, tấn công mạnh vào chủ lực quân Giải phóng, và cướp lại vùng nông thôn.

Giai đoạn 3: Hoàn toàn tiêu diệt chủ lực quân Giải phóng, phá hoại căn cứ và hậu cần, tiếp tục bình định miền Nam.

Trước ý đồ chiến lược mới của Mỹ, Bộ chính trị, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích, đánh giá tình hình và thảo luận tìm đối sách, sau đó đưa ra nhận định, đại ý:

Hiện nay ngụy quân đã thất bại trên chiến trường, ngụy quyền rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, đế quốc Mỹ mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược (nông thôn, đô thị, miền núi). Chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc không thể nào khắc phục được. Tiêu biểu là:

– Mâu thuẫn trầm trọng về tư tưởng chiến lược giữa mục đích muốn giấu mặt áp đặt chủ nghĩa thực dân mới (nghĩa là đứng ngoài làm chủ, bản thân không trực tiếp quản lý, chỉ huy và tham chiến), nhưng lại buộc phải tiến hành chiến tranh bằng đại quân viễn chinh Mỹ theo kiểu chủ nghĩa thực dân cũ (vì ngụy quân không biết đánh, nếu không đem quân vào đánh thì sẽ thua). Như vậy đây là một thất sách về chính trị và làm cho dư luận thế giới thấy rõ như ban ngày là Mỹ đã kéo đại binh vào tấn công Việt Nam, trực tiếp điều hành và tiến hành chiến tranh.

– Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng lại phải xây dựng cho được chính quyền và quân đội bản xứ để làm công cụ của Mỹ nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới. Trước đó, Mỹ chỉ lo mỗi việc là xây dựng, huấn luyện, trang bị, phát triển ngụy quân và ngụy quyền, và việc này đã rất khó khăn. Trong khi bây giờ chính phủ Washington phải thực hiện cả hai mục tiêu chiến lược này cùng một lúc, khó càng thêm khó.

– Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chế độ ngụy quyền và hệ thống thuộc địa kiểu mới. Trong khi đó thực tế chiến cuộc cho thấy Mỹ càng tiến hành chiến tranh thì ngụy quyền và ngụy quân càng dựa dẫm vào Mỹ hơn, không còn bao nhiêu động lực chiến đấu, và càng lục đục, chia rẽ khi tranh nhau sự ưu ái của Mỹ. Còn hệ thống thuộc địa kiểu mới thì càng suy yếu và ngày càng hiện rõ những dấu hiệu của một thuộc địa kiểu cũ (người Mỹ và lính Mỹ tràn ngập miền Nam, Mỹ nắm thực quyền về quản lý, chỉ huy, trực tiếp tiến hành chiến tranh). Những thực trạng đó đồng thời cũng kéo theo sự suy yếu của chính Mỹ.

Từ đó, phương châm đấu tranh của Việt Nam được đề ra là: Đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công chiến lược: Quân sự – chính trị – ngoại giao.

Ngày 20/7/1965, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:

        “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.

    Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định và tiên đoán:

        “Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế.”

Tự tin vào ưu thế quân đông với trên 20 vạn quân thiện chiến, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh tiến hành ngay chiến thuật tác chiến Tìm và Diệt của Tổng tư lệnh Liên quân, đại tướng William Westmoreland, với cuộc hành quân “Ánh sao sáng” vào căn cứ cách mạng ở Vạn Tường – Quảng Ngãi.

Tiếp đó Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 bằng nhiều cuộc hành quân vào “đất thánh Việt Cộng” như chiến khu Đ, chiến khu C (chiến khu Dương Minh Châu), và các chiến khu, địa điểm khác.

Nhưng nhờ chiến đấu dũng cảm, thông thạo địa hình quê nhà, và tài mưu trí sáng tạo, cũng như được sự phối hợp chiến đấu và tiếp viện ngày càng lớn từ miền Bắc, quân và dân miền Nam đã chiến đấu giành thắng lợi mở đầu ở Vạn Tường (ngày 18/8/1965). Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực quân Giải phóng lúc đó đang đóng ở Vạn Tường, cùng với du kích xã và quân dân địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của giặc Mỹ, diệt gần 1 ngàn lính, bắn cháy 22 xe tăng và xe thiết giáp, hạ 13 máy bay chiến đấu.

Hội nghị lần thứ 11 (3-1965), và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện tình hình do âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ gây ra, đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng về chủ trương chiến lược, phương châm và biện pháp cách mạng trong giai đoạn mới, nêu cao quyết tâm động viên lực lượng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân: “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hoà bình, thống nhất nước nhà”.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương, Quân ủy Trung ương đã triển khai toàn diện các mặt công tác quân sự trên cả hai miền và đề ra 6 phương thức tác chiến cho các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam:

1)      Đẩy mạnh hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực tập trung trong những chiến dịch vừa và lớn, dưới hình thức tiến công hoặc chủ động phản công địch.

2)      Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình độ cao.

3)      Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, hải cảng, cơ quan đầu não.

4)      Triệt phá các đường giao thông thuỷ bộ quan trọng, tạo thế bao vây, chia cắt địch.

5)      Đẩy mạnh hoạt động ở các đô thị.

6)       Tác chiến kết hợp với binh biến; triển khai công tác binh vận, ngụy vận trên quy mô chiến lược.

Từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất được tổ chức tại một địa điểm trong vùng giải phóng miền Nam. Gần 150 chiến sĩ thi đua ưu tú thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, tự vệ và dân quân du kích từ Bến Hải đến Cà Mau về dự đại hội. Tại đại hội này, ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã quyết định tuyên dương 23 Anh hùng quân giải phóng, trong đó có 2 phụ nữ (Tạ Thị Kiều và Nguyễn Thị út), 4 là dân tộc ít người.

Tháng 3-1965, những tiểu đoàn quân Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng, Chu Lai đã bị các lực lượng dân quân du kích xung quanh căn cứ Mỹ đánh phá quấy rối và tiêu hao.

Ngày 27-5-1965, 1 đại đội bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam đã tập kích 1 đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Núi Thành, tiêu diệt và làm bị thương 140 lính, thu toàn bộ vũ khí.

Trận Núi Thành khẳng định ý chí quyết tâm đánh Mỹ của quân và dân miền Nam, làm nức lòng nhân dân cả nước.

Ngày 18-8-1965, quân giải phóng khu V lại thắng lớn ở Vạn Tường (Bắc Quảng Ngãi). Một trung đoàn chủ lực cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đã đánh bại cuộc tiến công của một lực lượng lớn quân Mỹ gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, 1 tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép, 2 tiểu đoàn pháo 105 mi li mét, 6 tầu đổ bộ và 5 pháo hạm cùng hàng trăm máy bay chiến đấu. Đây là trận ra quân rầm rộ, hiệp đồng binh chủng đầu tiên của Mỹ trên một khu vực do họ lựa chọn.

Suốt một ngày chiến đấu quyết liệt, lực lượng vũ trang giải phóng đã đánh bại các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 lính Mỹ, bắn cháy, bắn hỏng nhiều máy bay, xe tăng và xe thiết giáp.

Trận Vạn Tường mở đầu cao trào diệt quân xâm lược Mỹ. Thắng lợi của trận Vạn Tường chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong chiến tranh cục bộ, mặc dù họ chiếm ưu thế về số lượng, về hỏa lực và sức cơ động; nó mở đường cho các đơn vị chủ lực quân giải phóng tiếp tục phát triển thế tiến công tập trung đánh những trận tiêu diệt từng đơn vị quân cơ động Mỹ.

Sau các chiến thắng Núi Thành và Vạn Tường, trên chiến trường miền Nam dấy lên phong trào “tìm Mỹ mà đánh”,“lùng ngụy mà diệt”; những “vành đai diệt Mỹ” xuất hiện ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn) v.v. Hàng vạn dũng sĩ diệt Mỹ đã lập nên nhiều chiến công.

Tại Plâyme (Tây Nguyên), sau khi tiêu diệt chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy, quân giải phóng buộc Sư đoàn kỵ binh không vận 1 Mỹ phải tham chiến. Bằng cách đánh táo bạo, mưu trí và dũng cảm, từ ngày 14 đến ngày 18-11-1965, lực lượng vũ trang Tây Nguyên loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 1.700 lính Mỹ, 1.274 lính ngụy, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, diệt gọn 1 chiến đoàn xe cơ giới, 1 tiểu đoàn bộ binh ngụy, phá 89 xe quân sự, 59 máy bay các loại (chủ yếu là máy bay lên thẳng). Sư đoàn kỵ binh bay “niềm hy vọng lớn nhất của lục quân Mỹ”, với chiến thuật “nhảy cóc”,“ứng viện giải vây” lần đầu tiên bị đánh bại trên chiến trường rừng núi Việt Nam.

Khả năng thắng Mỹ về quân sự trong chiến tranh cục bộ trở thành hiện thực ngay trong Đông-Xuân 1965-1966, bằng chiến thắng oanh liệt của quân và dân miền Nam đập tan cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của Mỹ – ngụy.

Trong cuộc phản công này, quân đội Mỹ đã mở rộng 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân then chốt đánh vào miền Đông Nam Bộ, và đồng bằng khu V, Củ Chi, Bến Cát, Nam Phú Yên, Quảng Ngãi và Bình Định, nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Quân và dân miền Nam chặn đánh quyết liệt trên mọi hướng. Những trận thắng lớn ở Nhà Đỏ Bông Trang (Thủ Dầu Một), ở Củ Chi (Sài Gòn), ở Bắc Sông Bé (Biên Hoà), thắng lợi của chiến dịch Bình Long, chiến thắng Cần Đâm, Cần Lệ (Thủ Dầu Một), ở Bà Rịa, những trận thắng địch ở Tây Nguyên, Bồng Sơn (Bắc Bình Định), ở Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), ở Phú Yên v.v. cùng với những trận diệt Mỹ ngay tại các căn cứ của địch và phong trào đấu tranh chính trị quyết liệt ở nông thôn, đô thị, phong trào chống phá “bình định”, đã làm cho Mỹ-ngụy tổn thất lớn, buộc phải kết thúc sớm cuộc phản công. Quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 104.000 quân địch.

Năm 1966, Bộ tư lệnh Lực lượng Dã chiến 2 của Mỹ huy động 19 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1, lữ đoàn 173 nhảy dù, 2 lữ đoàn của sư đoàn 4 và sư đoàn 25, và 1 chiến đoàn đặc nhiệm trực thuộc quân đoàn 3 ngụy, mở chiến dịch Attleboro đánh vào khu vực Tam Giác Sắt mà họ thường gọi là một trong những “đất thánh Việt Cộng” hoặc “đất thánh cộng sản”, với trọng điểm là chiến khu Dương Minh Châu (chiến khu C), một trong những đầu não của cách mạng miền Nam.

Tam Giác Sắt là một khu vực rộng 310 km² nằm giữa sông Sài Gòn và đường 13, khoảng 40 km phía bắc trung tâm Sài Gòn, bao gồm địa đạo Củ Chi và hệ thống mật khu vòng đai kiên cố như Hố Bò, Bời Lời, Long Nguyên v.v. Về lực lượng Việt Nam tham chiến chống Mỹ trong chiến dịch này, theo các nguồn của Mỹ là bao gồm các trung đoàn 101, 271, 272 và 273.

Quân đội Mỹ-ngụy trong chiến dịch này đặt dưới quyền chỉ huy của hai tướng Guy S. Meloy, Jr. và William E. DePuy, là hai tướng dày dặn kinh nghiệm chiến trường trong Thế chiến II. Mục tiêu chính của cuộc hành quân là diệt bộ phận đầu não quân sự và chính trị của Trung ương cục miền Nam.

Sau hơn hai tháng giằng co, giao chiến ác liệt, lực lượng Việt Nam bị tổn thất khá nặng và bị đẩy lùi ra khỏi trận địa. Sau trận này, lực lượng Việt Nam đã rút lui về bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia.

Mặc dù bị tổn thất, bị đẩy lui và thua về chiến thuật, nhưng ban chỉ huy đầu não của Mặt Trận đã kịp thời rút về bên kia biên giới Campuchia, tránh được tổn thất. Như vậy Mỹ đã không đạt được mục tiêu đề ra, do đó, trong chiến dịch này họ chỉ giành thắng lợi chiến thuật nhưng không giành được thắng lợi chiến lược.

Một trong những mục tiêu chính khác của Mỹ trong chiến dịch này là tìm cách kéo được quân Giải phóng ra đánh một trận lớn để gây tổn thương nguyên khí thật nặng, nhưng ý đồ đó của họ đã bị phía Việt Nam nhận ra nên đã tận dụng sự thông thạo địa hình, tác chiến linh hoạt theo chiến tranh du kích, tránh đánh lớn, khiến cho ý đồ đó không thành.

Mùa khô 1966-1967, Hoa Kỳ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ 2 với một lực lượng lớn gồm 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn chủ lực, khoảng 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng, thiết giáp, hàng chục vạn tấn bom đạn, hàng vạn tấn vũ khí hóa học, 2.540 khẩu pháo, 500 tàu xuồng chiến đấu.

Nếu tính cả các lực lượng ngụy, Thái Lan, Philippines, Guam, Nhật tham gia cuộc Chiến tranh Việt Nam thì số quân tham chiến trong cuộc phản công lần này lên tới 1 triệu 20 vạn, trong đó có 60 vạn quân Mỹ.

Hoa Kỳ tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, trọng điểm là Tây Ninh, nhằm mục tiêu “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo, chỉ huy Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và các đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Họ mở 895 cuộc hành quân vào khu vực Tam giác sắt, trong đó có 3 cuộc hành quân then chốt: cuộc hành quân Attleboro với 3 vạn quân Mỹ đánh vào chiến khu C, cuộc hành quân Cedar Falls với 3 lữ đoàn Mỹ đánh vào Bến Súc – Củ Chi – Bến Cát, và cuộc hành quân lớn nhất Junction City, đánh vào khu vực đường 22 sát biên giới Việt Nam – Campuchia và khu vực Dầu Tiếng, Minh Thạnh, Bến Củi, có tất cả 7 lữ đoàn Mỹ và 2 chiến đoàn ngụy với quân số 4,5 vạn quân tham gia, sử dụng nhiều vũ khí và trang bị mới.

Trong cuộc phản công mùa khô này, quân và dân miền Nam đã mở hàng loạt trận phản công, đánh bại các cuộc hành quân của Mỹ-ngụy. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ đã cùng toàn dân bám sát địch, đánh tiêu hao và tiêu diệt địch trên khắp các chiến trường.

Những trận đánh giặc ngay trên địa bàn hành quân của họ, ở trong vùng phía sau địch, ở hậu cứ và cơ quan đầu não của họ, những hoạt động mạnh ở các vùng đồng bằng, ở Tây Nguyên, ở đường 9 – Trị Thiên đã kéo địch ra mọi hướng, đánh bại 3 cuộc hành quân lớn và nhiều cuộc hành quân khác, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 175.000 quân Mỹ, quân ngụy và chư hầu, 28 tiểu đoàn Mỹ, 21 tiểu đoàn và các đơn vị tương đương của ngụy và chư hầu bị đánh bại, khoảng 1.800 máy bay chiến đấu và 1.786 xe quân sự bị bắn cháy, bắn hỏng, khoảng 100 tàu chiến bị bắn cháy, bắn chìm.

Kết quả trong 2 mùa khô (1965-1966 và 1966-1967), quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến khoảng 15 vạn quân Mỹ và 14 vạn quân ngụy và chư hầu, làm thất bại một bước quan trọng cuộc chiến tranh cục bộ của Hoa Kỳ, làm cho thế trận của địch nao núng, tinh thần quân địch sút kém, hàng ngũ địch thêm mâu thuẫn.

Năm 1967, trong chiến dịch hành quân Cedar Falls, người Mỹ kéo gần 3 vạn quân tiếp tục đánh vào khu vực Tam Giác Sắt. Lần này quân Giải phóng đổi chiến lược, phân tán rút vào rừng và ẩn thân trong hệ thống địa đạo. Trong chiến dịch này, “lính chuột cống” (Tunnel Rat) được sử dụng lần đầu tiên để xâm nhập hầm trú ẩn và hệ thống công sự ngầm của quân Giải phóng.

Sau gần 1 tháng giằng co, mặc dù đã phá hủy nhiều đoạn công sự của Việt Nam, nhưng mục tiêu Hoa Kỳ đặt ra về cơ bản đã không đạt được. Trong khi đó, việc bảo vệ an toàn phần lớn căn cứ có thể coi là một thắng lợi chiến lược của quân kháng chiến Việt Nam.

Nhờ vào hệ thống địa đạo có quy mô rộng lớn và tổ chức tinh vi, lực lượng kháng chiến Việt Nam không cần mất nhiều công sức để bày binh bố trận hay tổ chức những trận đánh lớn đầy phiêu lưu mạo hiểm mà phía Mỹ vẫn phải rút quân, vì không rút quân thì cũng chết dần mòn trong sự bất lực.

Trước chiến dịch này còn có một cuộc hành quân khác của quân đội Mỹ nhằm vào vùng Củ Chi cũng với các mục tiêu quân sự tương tự và đã chịu thất bại theo cách tương tự, đó là chiến dịch Crimp năm 1966.

Nhìn chung, qua nhiều chiến dịch và trận đánh, hai phía đối địch đều có thắng có bại và trong nhiều trận cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Nhưng về cơ bản Việt Nam đã giành chiến thắng quan trọng trước hai cuộc tấn công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ. Quân Việt đã chặn đứng và đánh lui hàng loạt cuộc hành quân bình định, Tìm và Diệt của Mỹ vào những khu vực họ gọi là “đất thánh Việt Cộng” (những vùng giải phóng ở Tây Ninh, Long An, Bình Dương, Củ Chi).

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trước đây đã từng ủng hộ chính sách của tổng thống Lyndon B. Johnson đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì nay cũng tỏ ra chán nản và nghi ngờ kết quả của chính sách leo thang của Mỹ ở Việt Nam. Tình hình miền Nam lúc đó như McNamara đánh giá là: “Các chính sách và chương trình của Mỹ ở Đông Dương đã phát triển theo một hướng mà chúng ta đã không lường trước được…. và sự thiệt hại về người, chính trị, xã hội và kinh tế là không thể tưởng tượng được. Chúng ta đã thất bại”.

Trung tuần tháng 8-1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã họp đại hội bất thường, thông qua Cương lĩnh chính trị nhằm mở rộng khối đoàn kết dân tộc và tăng tốc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tiếp đó, trung tuần tháng 9-1967, đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 2 đã họp để tổng kết phong trào đánh Mỹ, diệt ngụy trong 2 năm qua, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm tiếp tục chỉ đạo và đẩy mạnh phong trào kháng chiến. đại hội đã tuyên dương 47 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. Tháng 12-1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp, ra Nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Nghị quyết của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp vào tháng 1-1968 thông qua và trở thành Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân (1968) nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ.

(Tổng hợp)

Chiến tranh Việt Nam và chiến tranh biên giới Tây Nam: Những sự đánh đồng phi lý

Nhiều năm nay những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở Campuchia và những người Mỹ cực hữu, những người Việt chống Cộng, đều đánh đồng cuộc chiến tranh Mỹ tiến hành ở Việt Nam với cuộc chiến tranh do Việt Nam tiến hành ở Campuchia. Họ tuyên truyền ngụy biện rằng “nếu Mỹ xâm lược Việt Nam thì Việt Nam cũng xâm lược Campuchia”.

Mục đích của phe chủ nghĩa sô-vanh (chauvinism) ở Campuchia là nhằm xách động quan hệ VN – CPC, đánh đồng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ nhằm thuyết phục cho người ta tin rằng VN đã xâm lược CPC.

Trong khi đó, mục đích của bộ phận người Mỹ và người Việt cực đoan, đánh đồng cuộc chiến tranh phản công biên giới Tây Nam hòng thuyết phục người khác tin rằng Mỹ không xâm lược Việt Nam.

Trong số nhiều ngụy biện về lịch sử thì phải nói rằng trường hợp này là một trong những ngụy biện của những người có trí tưởng tượng kỳ quặc nhất, bởi lẽ đây là hai cuộc chiến hoàn toàn khác nhau về bản chất, tính chất, từ mục tiêu chiến tranh đến diễn biến thực tế của cuộc chiến. Đối với những người bình thường thì trong đầu mỗi khi hiện lên ý nghĩ về hai cuộc chiến này sẽ không có bất kỳ sự liên tưởng nào đến nhau.

Trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam chống Pháp Mỹ, Mỹ đã trợ giúp Pháp xâm lược Việt Nam, sau đó thay thế Pháp làm chủ và kiểm soát miền Nam Việt Nam, biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa trá hình và căn cứ quân sự chiến lược của Mỹ, hình thành một địa bàn chiến lược của Mỹ cho mục đích chống Trung Quốc và chống chủ nghĩa xã hội nói chung.

Đích nhắm của Mỹ ở Việt Nam là lực lượng cách mạng giải phóng đất nước, lực lượng cứu nước giành độc lập từ cuộc cách mạng Tháng Tám đến cuộc kháng chiến chống Pháp.

Khmer Đỏ đã xâm lược biên giới Việt Nam, đốt phá thôn bản và nhà dân, thảm sát người dân giống như quân đội Mỹ – ngụy đã làm ở Việt Nam trước đó. Họ đã liên tục gây ra những cuộc xung đột ở biên giới Việt Nam – Campuchia trong năm 1977 và 1978. Những cuộc xâm lược đã bắt đầu ngay sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đã đột kích đảo Phú Quốc; 6 ngày sau, quân Khmer Đỏ xâm lược và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu.

Đáp trả hành vi xâm lược của Khmer Đỏ, quân Việt Nam đã phản công và nhanh chóng giải phóng các nơi này.

Tiếp theo cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ thì Khmer Đỏ còn tiến hành hai cuộc xâm lược quy mô vào Việt Nam.

Cuộc xâm lược lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chủ lực Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và thảm sát dân thường.

Cuộc xâm lược thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 cùng năm. Lần này, 4 sư đoàn Khmer Đỏ xâm lược nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích.

Ngày 31 tháng 12 năm 1977, 6 sư đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam phản công vào đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, giải cứu những nhà lãnh đạo quan trọng của Campuchia, trong đó có ông Hun Sen. Đây là một cuộc đánh trả lớn nhằm cảnh cáo, răn đe Khmer Đỏ.

Nhằm bảo vệ hòa bình và tránh một cuộc chiến tranh leo thang, Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot bác bỏ và tiếp tục cực đoan chống Việt Nam.

Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Khmer Đỏ họp bàn chủ trương chống Việt Nam triệt để, toàn diện, quyết định thành lập 15 sư đoàn. Pol Pot ra Nghị quyết: “Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”.

Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục xâm lược Việt Nam, có nơi vào tới 15-20 km. Trong các đợt xâm lược đó, Khmer Đỏ đã gây ra nhiều cuộc thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Điều này khiến cho Khmer Đỏ lộ rõ bản chất phát xít vô nhân đạo, phi nhân tính.

Với một chính sách phân biệt chủng tộc, bài Việt, kỳ thị và tẩy chay người Việt, và đại diệt chủng, những cái gọi là “nghị quyết”, “chính sách”, não trạng, nhận thức, cách nghĩ, cách làm, hành động của họ rất quái đản và đầy tính chất bệnh hoạn.

Ngày 13 tháng 12 năm 1978, Khmer Đỏ huy động 10 trong 19 sư đoàn tổng tấn công, xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự, 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi, 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến thuộc tỉnh Kiên Giang.

Quân đội Việt Nam đã phải chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời làm tiêu hao sinh lực địch. Các hướng tiến binh của quân xâm lược bị chặn đứng và không thể phát triển.

Như vậy, Pol Pot đã xâm lược lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc trong những năm 1975-1978, gây nhiều tội ác chiến tranh diệt chủng đối với Việt kiều và người dân Khmer ở Campuchia, còn ở những vùng tạm chiếm đóng trong lãnh thổ Việt Nam, Khmer Đỏ đã thực hiện chính sách diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer ở chính nước họ.

Trong xã hội Campuchia dưới ách cai trị tàn bạo nghịch thường của Pol Pot và Khmer Đỏ, họ chủ trương xây dựng một xã hội không trường học, không tiền bạc, không chợ búa, người đẹp phải lấy người xấu trong những cuộc hôn nhân sắp đặt, cưỡng bách. Họ cho rằng đó là vì sự “bình đẳng”, “cân bằng sinh học” trong xã hội.

Trẻ em Campuchia thì bị đào tạo thành những cỗ máy giết người, trẻ em 5 tuổi đã được luyện hành hạ thú vật, gia súc, và con người, lớn lên một chút thì được luyện giết người, luyện cho các em quen dần với cảm giác giết chóc, tra tấn, bắn giết, phá hoại, hủy diệt, cảm giác “say máu”.

Trí thức thì trở thành đối tượng đều tiêu diệt tận gốc rễ, và tiêu chí để nhận biết ai có phải là “trí thức” hay không đó là sự đeo kính, bất kỳ ai đeo mắt kính thì đều là “trí thức” và bị hành quyết.

Một tiêu chí khác nữa là xem bàn tay, dù ai đó không bị cận thị, không đeo kính, nhưng nếu bàn tay mịn màng, sạch sẽ, đẹp đẽ, không thô kệch, không dơ dáy, không có dấu hiệu của việc lao động tay chân cơ bắp thì sẽ bị coi là “lười lao động”, “biếng nhác”, “con nhà giàu”, “trí thức” v.v. và nhẹ thì bị chặt ngón tay, vừa thì bị chặt nhiều ngón tay, chặt bàn tay, cánh tay, nặng thì bị giết.

Pol Pot cai trị một cách quá khích, cuồng tín và man rợ như một tù trưởng của bộ lạc ăn thịt người thời đồ đá, giết sạch bất kỳ ai dám lên tiếng phản đối, vu cho là “theo Việt Nam”, “kẻ phản bội” v.v. Họ triệt hạ, thanh trừng nội bộ bằng nhiều hình thức khác nhau, bao gồm hành quyết hàng loạt.

Chính quyền cách mạng ở Việt Nam là một thái cực hoàn toàn trái ngược. Một bên là lực lượng giải phóng dân tộc, một bên là lực lượng diệt chủng dân tộc.

Như vậy, chiến tranh phản công biên giới Tây Nam là một sự đánh trả tự vệ để tận diệt bọn xâm lược, là một cuộc chiến tranh chống xâm lược và dứt điểm quân giặc xâm lược. Nếu không dứt điểm được giặc thì sau khi hồi phục, quân xâm lược sẽ trở lại tiếp tục xâm lược, và chiến tranh sẽ tiếp diễn không có hồi kết.

Mục đích chiến tranh không phải để xâm lược Campuchia, mà để chống quân xâm lược Khmer Đỏ, đồng thời tiện thể giải phóng Campuchia và kết quả đã cứu nguy người dân Campuchia khỏi sự diệt chủng của Khmer Đỏ, giúp hồi sinh dân tộc Khmer, hoàn thành nghĩa vụ quốc tế.

Nếu hành động triển khai quân đội cho một chiến dịch chiến tranh ở ngoài nước đều mặc định tự động là “xâm lược” thì lịch sử thế giới sẽ phải viết lại nhiều cuộc chiến tranh giúp bạn hoặc phản công tự vệ, thay đổi ý nghĩa thành “chiến tranh xâm lược” cho tất cả.

Ví dụ như nhà Thanh đưa quân đội viễn chinh giúp đỡ lực lượng chủ chiến triều Nguyễn và nghĩa quân Yên Thế chống Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp – Thanh ở Bắc Việt và Hoa Nam. Hay như Trung Quốc đem quân đội vào cứu Bắc Triều Tiên, chống lại lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ chỉ huy.

Hay như quân đội Liên Xô phản công vào Berlin để dứt điểm quân xâm lược, lật đổ Đức Quốc Xã, góp phần giải phóng nhân loại khỏi thảm họa phát xít như quân đội Nhân Dân Việt Nam đã giải phóng Campuchia, giải cứu dân tộc Khmer khỏi thảm họa diệt chủng.

Theo logic ngụy biện đánh đồng các cuộc chiến tranh kể trên thì nhà Thanh đã xâm lược Bắc Kỳ, Trung Quốc đã xâm lược Bắc Triều Tiên, còn Liên Xô thì đã xâm lược nước Đức.

Việt Nam không đưa quân sang Hoa Kỳ xâm lược như quân Mỹ đã sang Việt Nam xâm lược, như Khmer Đỏ đưa quân sang VN xâm lược.

Do Khmer Đỏ liên tục đưa quân sang xâm lược VN và sau tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược không chịu dừng tay, nên VN đành phải tiến hành cuộc chiến tranh bắt buộc để bảo vệ bờ cõi, ổn định biên giới Tây Nam và dứt điểm cuộc chiến tranh xâm lược của Khmer Đỏ, lật đổ Khmer Đỏ, giải phóng đất nước Campuchia và người dân Khmer khỏi thảm họa diệt chủng, diệt vong.

Đó là một cuộc chiến tranh vừa giúp bạn vừa giúp mình và cũng vì nghĩa vụ quốc tế, nghĩa vụ giữa những người đồng chí với nhau.

Đó là một cuộc chiến tranh bắt buộc, không ai muốn xảy ra, trong một tình hình bất ổn rối ren của thời hậu chiến sau giải phóng khi mà khát vọng hòa bình luôn cháy bỏng.

Chính Khmer Đỏ đã phá đổ khát vọng hòa bình khi đưa quân gây ra cuộc chiến tranh xâm lược, đánh vào nhiều tỉnh thành của Việt Nam, dẫn đến cuộc chiến tranh phản công biên giới Tây Nam, một cuộc chiến tranh bắt buộc.

(Tổng hợp)

Hồ sơ Lầu Năm Góc: Mỹ tiến hành chiến tranh Việt Nam nằm trong chiến lược toàn cầu chống Trung Quốc

Daniel Ellsberg ra tòa vì tiết lộ hồ sơ Lầu Năm Góc về chiến tranh Việt Nam cho New York Times, sau đó được tha bổng dưới áp lực dư luận trong nước và quốc tế.

Daniel Ellsberg là ai?

Daniel Ellsberg là tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard, tốt nghiệp năm 1962. Sau khi tốt nghiệp, ông đến Việt Nam công tác trong nhóm tư vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.

Năm 1967, Ellsberg trở về Mỹ và được phân công làm việc trong nhóm sĩ quan, chuyên viên Lầu Năm Góc chuyên nghiên cứu, phân tích chiến lược tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara.

Năm 1971, ông đã gây chấn động nước Mỹ khi lấy cắp thông tin mật của Lầu Năm Góc bằng cách sao chụp 7 nghìn trang hồ sơ Lầu Năm Góc về kế hoạch leo thang chiến tranh Việt Nam, sau đó ông đào thoát và trao cho nhà báo danh tiếng của New York Times là Neil Sheehan. Vụ đánh cắp thông tin và trốn thoát đầy kịch tính này đã tạo ra một scandal lớn và một làn sóng phản đối chiến tranh mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử Hoa Kỳ.

Mặc dù tập hồ sơ đã được New York Times nhanh chóng cho phát hành, tuy nhiên sau đó nó nhanh chóng bị tịch thu theo luật bảo mật thông tin quốc gia.

Năm 2002, ông hoàn thành quyển hồi ký Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers (Những bí mật về chiến tranh Việt Nam – Hồi ức về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm Góc), từng là best-seller năm ấy. Ngay từ khi phát hành, cuốn hồi ký của Ellsberg đã gây xôn xao dư luận. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của chính tác giả và những âm mưu của tổng thống Nixon cùng Lầu Năm Góc đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Trong tác phẩm, Ellsberg đã mô tả lại quá trình nhận thức của ông ta về Chiến tranh Việt Nam như sau: “Thoạt đầu tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm họa về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác”.

Tháng 3/2006, Ellsberg trở lại thăm Việt Nam và được trao kỷ niệm chương “Vì hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc”, tôn vinh những cống hiến của ông dành cho Việt Nam.

Tháng 6/2011, các tài liệu hình thành nên Hồ sơ Lầu Năm Góc đã từng bị thu hồi năm 1971 đã được giải mật, phát hành công khai, và được cho rằng đã công bố “toàn bộ”.

Hồ sơ Lầu Năm Góc nói gì?

Hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) có tên chính thức là Báo cáo của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về Lực lượng đặc biệt ở Việt Nam (Report of the Office of the Secretary of Defense Vietnam Task Force), là một bộ hồ sơ của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về vai trò chính trị và quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam từ năm 1945 đến 1967.

Hồ sơ này đã chấm dứt những tranh cãi từ trước năm 1975 đến nay về vấn đề: Ai đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm và cũng chính ai đã bóp chết nó.

Tuy nhiên, về nguyên nhân Mỹ đã gây ra và tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam thì có sự thiếu nhất quán. Trong số hồ sơ mà Tiến sĩ Ellsberg đánh cắp được thì có những mâu thuẫn ở nguyên nhân Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, những hồ sơ những năm 1950 thì cho thấy giới chức Mỹ cho rằng nguyên nhân chủ yếu cho việc gây chiến tranh ở Việt Nam là để “kìm hãm và chế ngự Trung Quốc”, bởi ngay thời đó mà họ đã có tính toán chiến lược rằng Trung Quốc sẽ phát triển lớn mạnh và đe dọa vị thế của họ.

Mặc dù Tổng thống Hoa Kỳ Johnson tuyên bố rằng mục đích của Chiến tranh Việt Nam là để đảm bảo một “Nam Việt Nam độc lập, không cộng sản”, một bản ghi chú tháng 1 năm 1965 của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng John McNaughton nêu rõ rằng cuộc chiến tranh Việt Nam “không phải để giúp đỡ bạn bè, mà là để kìm hãm Trung Quốc”.

Vào ngày 3 tháng 11 năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara đã gửi một bản ghi chú cho Tổng thống Johnson, trong đó ông giải thích “các quyết định chính sách quan trọng đối với đường lối hành động của chúng tôi ở Việt Nam”. Bản ghi chú bắt đầu bằng việc tiết lộ lý do đằng sau vụ ném bom miền Bắc Việt Nam vào tháng 2 năm 1965:

"Quyết định ném bom miền Bắc Việt Nam vào tháng 2 và việc phê duyệt giai đoạn I vào tháng 7 chỉ có ý nghĩa nếu chúng ủng hộ chính sách lâu dài của Hoa Kỳ nhằm kìm hãm Trung Quốc."

McNamara buộc tội Trung Quốc nuôi dưỡng khát vọng “đế quốc” giống như của Đức Quốc xã và phát xít Nhật. Theo McNamara, Trung Quốc đang âm mưu “tổ chức toàn bộ châu Á” chống lại Hoa Kỳ:

"Trung Quốc - như Đức vào năm 1917, như Đức ở phương Tây và Nhật Bản ở phương Đông vào cuối những năm 30 và giống như Liên Xô vào năm 1947 - hiện ra như một cường quốc đe dọa làm suy giảm tầm quan trọng và vị trí của chúng ta trên trường quốc tế, và, mặc dù từ xa nhưng hết sức nguy hiểm, tổ chức toàn bộ châu Á chống lại chúng ta!"

Tuy nhiên, khi đến các hồ sơ những năm 1960 về sau này thì họ lại cho thấy “70%” nguyên nhân của chiến tranh Việt Nam là do người Mỹ muốn giữ thể diện nước lớn và không muốn trở thành bên thua cuộc. Yếu tố “chống Trung Quốc” lúc này chỉ còn lại “20%”. Như vậy, ngay cả các hồ sơ Lầu Năm Góc đã có những ngôn luận và ghi chép không nhất quán về nguyên nhân Mỹ xâm lược Việt Nam.

Tuy vậy, có lẽ cũng nên nhìn nhận một thực tế là Trung Quốc luôn đứng ở vị trí trung tâm và có vai trò lớn trong các toan tính của các nước khi xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Có thể thấy qua việc phương Tây đã gắn tên Trung Quốc vào Biển Đông (South China Sea) và bán đảo Đông Dương (Indo-China).

Gần đây có phát hiện mới cho rằng Pháp xâm lược Đông Dương là trong một toan tính sau khi xâm lược Đông Dương thì tiếp theo sẽ xâm lược Trung Quốc, cụ thể là đánh chiếm tỉnh Vân Nam từ phía Việt Nam, hợp tác với thực dân Anh đang gây chiến tranh xâm lược ở Trung Quốc với cuộc chiến tranh Nha Phiến.

Ngoài ra, có thể thấy chính quyền Diệm đã nỗ lực bài trừ người Hoa và chống Trung Hoa một cách khá bất thường, vượt ngoài phạm vi của một người Kito thù ghét ác cảm người Tàu do khác biệt về tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa dân tộc, nhất là trên cương vị của một chính khách, một người đứng đầu chính quyền.

Năm 1956, chính quyền Diệm đã buộc tất cả Hoa kiều phải nhập “quốc tịch”, nếu không sẽ bị trục xuất và đưa ra Đạo luật 53 cấm Hoa kiều tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn v.v. được ban hành vào tháng 9/1956.

Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế chứ không có tác dụng gì nhiều, vì cả xã hội miền Nam sống nhờ tiền viện trợ và không có năng lực lao động sản xuất hay kinh doanh, do đó, nếu người Việt không làm thì người Hoa sẽ làm. Chính quyền lấy cớ là để tăng cường năng lực cạnh tranh, nhưng khi cả một xã hội, guồng máy chính trị và quân sự đều lệ thuộc toàn diện, chịu sự nuôi nấng của kẻ khác, thì thị trường kinh tế xã hội chắc chắn sẽ không có bất kỳ một sự cạnh tranh nào thật sự cả.

Một bộ phận người dân do thiếu hiểu biết, họ không hiểu rằng cả một nền kinh tế và cả xã hội sống nhờ vào viện trợ Mỹ, sống bám vào sự đùm bọc của mẫu quốc, sống ký sinh vào ngân sách ở Washington và tiền thuế công dân Mỹ, nên họ mãi ảo tưởng mình là “Hòn ngọc Viễn Đông” mà không biết lao động, không biết làm gì để xây dựng phát triển có ích cho xã hội, đến khi không còn ông Mỹ ở đó nữa, khi phải tự lực cánh sinh thì không biết làm gì. Nhiều người theo đó lộ ra hết sự thiểu năng và vô dụng, điều đó đã được phơi bày sau ngày giải phóng khi nhiều người thất nghiệp không làm gì, chỉ sống lây lất qua ngày, trông chờ tiền người thân ở Pháp – Mỹ gửi về.

Điều thú vị là nhiều chính khách thân thiện với Việt Nam ở Hoa Kỳ, từng tham gia tích cực phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, do nghe nhiều truyền thông một chiều nên họ cũng cho rằng phải chống, phải kìm hãm, kiềm chế, phải ngăn chặn đà phát triển của “kẻ thù” Trung Quốc, nhưng họ cho rằng dù vậy thì cũng không nên xâm lược Việt Nam để hoàn thành mục tiêu đó. Ông George McGovern là một trong những nhân vật như vậy.

George S. McGovern, ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân Chủ năm 1972, là một trong những người phê phán chủ chốt ở Quốc hội về cuộc chiến tranh Việt Nam. Quan điểm dưới đây được trích từ lời tuyên bố của MrGovern trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ ngày 4/2/1970, ủng hộ nghị quyết kêu gọi rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam.

Trong bản tuyên bố, MrGovern phê phán chính sách “Việt Nam hóa” chiến tranh của Tổng thống Nixon, theo đó “màu da” lính người Mỹ sẽ được dần dần thay thế bằng “màu da” lính người Việt:

“Tôi thấy thật là ghê tởm về mặt chính trị và đạo lý khi tạo ra một nhóm tướng tá người Việt ở Sài Gòn chỉ biết sống dựa dẫm, rồi lại còn cho họ công nghệ quân sự giết người đề chống lại nhân dân của chính họ.

Việt Nam hóa về cơ bản là một nỗ lực làm cho yên lòng nhân dân Mỹ trong khi chính phủ của chúng ta lại phát động một cuộc chiến tranh không cần thiết và tàn ác bằng cách ủy quyền.

Một chính sách đối ngoại khôn ngoan của Mỹ là phải ngừng việc ra sức ra lệnh phải có kết quả của một cuộc đấu tranh chủ yếu ở địa phương, lôi cuốn nhiều nhóm người Việt Nam tham gia. Nếu chúng ta lo lắng đến “mối đe dọa” tương lai đối với Đông Nam Á từ Trung Quốc, chúng ta hãy có nhận thức chung đề nhận ra rằng một chế độ độc lập hùng mạnh dẫu cho có được tổ chức bởi Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Hà Nội cũng sẽ cung cấp một rào cản đáng tin cậy chống lại “chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc” hơn là chế độ bù nhìn yếu đuối mà chúng ta duy trì để nắm quyền với cái giá 40.000 sinh mạng người Mỹ và hàng trăm ngàn sinh mạng người Việt Nam.”

Hồ sơ tiết lộ vai trò của Mỹ đối với chính quyền Ngô Đình Diệm

Trong Hồ sơ mật Lầu Năm Góc có hai hồ sơ đáng chú ý là câu: “Chúng ta phải thừa nhận rằng Nam Việt Nam, không giống như bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á, thực chất là một sáng tạo (creation) của Mỹ”.

Hồ sơ ghi rõ ngày 23 tháng 8 năm 1963, Trung tá CIA người Mỹ gốc Pháp Lucien Conein (từng hoạt động trong cuộc chiến tranh Đông Dương) gặp Dương Văn Minh và các tướng tá Sài Gòn chỉ đạo việc bắt giết gia đình nhà Ngô.

Trong một phần của Hồ sơ Lầu Năm Góc có tiêu đề “Các cam kết và chương trình của Kennedy”, ghi nhận cam kết của Hoa Kỳ về việc tạo ra một “nhà nước” Nam Việt Nam. Theo ghi nhận của những báo cáo này:

"Chúng ta phải lưu ý rằng Nam Việt Nam (không giống như bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á), về cơ bản là sự sáng tạo ra của Hoa Kỳ."

Trong một tiểu mục có tiêu đề “Cam kết đặc biệt của Hoa Kỳ đối với Việt Nam”, các bài báo đã nhấn mạnh một lần nữa vai trò của Hoa Kỳ:

"Nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ, thì trong những năm sau đó chính quyền Diệm và Nam Việt Nam hầu như chắc chắn không thể nào tồn tại."

Ngoài ra, còn có những thông tin được tiết lộ từ hồ sơ cho biết từ đâu chính giới Mỹ đi tới quyết định “Diệm phải đi!” (“Diem must go!”):

“Sự bất mãn với chế độ Diệm đã trở thành cấp bách trong tháng 8 năm 1963. Nhà nước (Hoa Kỳ) ngày 8/21/1963 đã ghi nhận rõ vấn đề này là nghiêm trọng. Chính phủ của Diệm đã xông vào ngôi chùa Phật giáo vào ngày hôm đó. Các vấn đề chưa được giải quyết giữa chính phủ và các nhà sư Phật giáo đã tiếp tục kể từ mùa xuân năm 1963, khi một số tu sĩ, trong đó có Quảng Đức, tự thiêu. Bà Nhu, em dâu của tổng thống, đã nói một cách khinh miệt rằng các nhà sư là “thịt nướng của Phật giáo” và hứa cung cấp thêm xăng. Các hành động đàn áp trong tháng 8 đã cho thấy rằng ‘Diệm phải đi’.”

“Tổng thống Kennedy đã nhận được một cuộc họp báo về ngày 27 tháng 8 năm 1963. William Colby, một trong các chuyên gia CIA về Việt Nam, trong một cuộc báo cáo liên quan của 2 vị tướng Nam Việt Nam ngày hôm trước. Họ đã báo cáo: ‘Tình hình cho một cuộc đảo chính là thuận lợi và dự báo nó sẽ kéo dài một tuần.’”

“Hai ngày sau đó, tổng thống (John F. Kennedy) đã gởi một tin nhắn đến Henry Cabot Lodge, Jr, đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Tin nhắn đã cho thấy rõ ràng rằng John F. Kennedy phê duyệt kế hoạch của các tướng Nam Việt Nam nhưng bảo lưu quyền, với thẩm quyền của một Tổng tư lệnh, để thay đổi quyết định vào phút cuối cùng.”

Theo bản báo cáo 1034 từ Sài Gòn gửi đến Washington vào ngày 19/9/1963, nằm trong các hồ sơ Lầu Năm Góc được giải mật và lưu trữ trong cơ quan NARA của chính phủ Hoa Kỳ, thì:

“Một báo cáo của CIA, chuẩn bị cho tổng thống (Hoa Kỳ) vào ngày 19/9/1963, chỉ ra rằng quân đội và tình báo người Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã chia rẽ quan điểm về vấn đề có nên đảo chính hay không.”

Trang thứ hai của bản ghi còn cho biết: “Nhóm CIA ủng hộ cuộc đảo chính quan tâm nhất đến việc đưa lên một chính phủ mà họ có thể điều khiển, điều đó hợp lý hóa những khoản tiền khổng lồ mà họ đã bỏ ra.”


Như vậy, Hồ sơ Lầu Năm Góc đã trả lời rất rõ ràng những câu hỏi: chính quyền Diệm nói riêng và chính quyền Sài Gòn nói chung là gì? Ai tạo ra nó? Ai bóp chết nó?

Còn câu hỏi tại sao Mỹ muốn xâm lược miền Nam Việt Nam? Mỹ muốn chiếm giữ và kiểm soát nơi này để làm gì? Thì chưa có những lời giải nhất quán theo hồ sơ này. Yếu tố chống Trung Quốc tất nhiên là có, nhưng đó có phải là yếu tố xuyên suốt và nhất quán theo thời gian trong suốt cả cuộc chiến tranh này hay không thì đến nay vẫn chưa có lời giải rõ ràng và đầy đủ.

Theo Pentagon Papers (Hồ sơ Lầu Năm Góc), Phan Tuấn, History Channel, Tạp chí Phương Đông (Viện nghiên cứu phát triển Phương Đông), Khoa Việt Nam học (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn ĐHQG TPHCM)

Hậu Geneva và giai đoạn chuyển tiếp từ Chiến tranh Đông Dương sang Chiến tranh Việt Nam

Trong thời kỳ 1945-1975, có một giai đoạn chuyển tiếp từ Chiến tranh Đông Dương sang Chiến tranh Việt Nam, giai đoạn này còn được nhiều người miền Nam gọi là giai đoạn Hậu Geneva.

Sau khi hiệp định Geneva về Đông Dương năm 1954 được ký kết giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Pháp, miền Bắc Việt Nam đã được giải phóng và đã giành được độc lập trên thực tế, người Việt làm chủ trên đất Việt.

Quân viễn chinh Pháp đã chạy về Nam, một nửa giang sơn đã định. Những người cộng sản Việt Nam bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, tái thiết và phát triển, nhằm tạo tiên đề để tiến lên hoàn tất mục tiêu còn đang dở dang: giải phóng miền Nam.

Miền Bắc hừng hực khí thế cách mạng trong không khí chiến thắng và hy vọng về ngày mai tươi sáng, nỗ lực xây dựng một xã hội đẹp tươi, với niềm tin chiến thắng và lòng tin không lay chuyển đối với biểu tượng Hồ Chí Minh, một nhà chính trị kiệt xuất của Việt Nam, một nhà hoạt động cách mạng ưu tú của cộng đồng quốc tế, người được coi là cha già dân tộc của Việt Nam, là người đã du nhập chủ nghĩa Marx-Lenin và lý tưởng Cộng Sản, lý tưởng XHCN vào Việt Nam, mở ra con đường mới: con đường đi lên CNXH và mở ra một thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh ở Việt Nam.

Trong khi đó, miền Nam “hậu Geneva” là một khung cảnh trầm lắng, tĩnh lặng và đầy nỗi lo. Người Pháp càng rút đi thì người Mỹ càng kéo đến. Người Pháp còn lại càng ít thì người Mỹ kéo vào càng đông.

Nếu lội ngược dòng thời gian, hòa mình trở thành một người dân thường đi lại trên đường, chúng ta thỉnh thoảng sẽ ngẫu nhiên thấy một chiếc xe Jeep đi qua, binh lính đầy trên xe, tay lăm lăm khẩu súng trường. Những người lính ấy có thể là da trắng, da vàng hoặc da đen. Những người lính ấy có thể là lính Pháp, lính ngụy, hoặc lính các lộ quân phiệt giang hồ và giáo phái vũ trang.

Những chiếc xe quân sự như thế này thường đi rất nhanh, bụi tung mờ mịt trên đường, khiến người đi bộ phải ho khan. Sau khi bọn họ đi khỏi thì không còn ai để ý nữa, cũng không có ai dõi mắt nhìn theo, mọi người đều đã quen với cảnh tượng này, quen với cuộc sống căng thẳng xen giữa tĩnh lặng, những mối hiểm họa quân sự khôn lường và nguy cơ về một cuộc chiến mới, ẩn náu phía sau ảo tưởng hòa bình.

Cũng có những người cảm thấy chẳng có gì không ổn, họ nghĩ rằng những mối lo ngại hão huyền trên báo chí là quá xa vời so với cuộc sống thực tại. Những cảnh tượng bắn giết, đầu độc chết ở ngay nhà hàng, khủng bố trắng, xả súng vào nhau, bắn tỉa xong rồi lên xe Jeep bỏ chạy, những dấu hiệu ban đầu về một cuộc khủng bố tôn giáo lớn nhắm vào đạo pháp và dân tộc, nhắm vào đạo Phật, một tín ngưỡng dân tộc gắn liền nghìn đời trên đất nước hình chữ S, chỉ là những điều thuộc về những nhân vật tai to mặt lớn mà thôi, “chẳng liên quan gì đến tôi”.

Nhưng trên thực tế, những điều đó không hề xa vời với họ.

Chín năm trước, hoàng đế thoái vị, một nửa giang sơn đã hoàn toàn đổi chủ, Việt Nam dân chủ cộng hòa và quân Pháp đại chiến, quân phiệt, giang hồ, giáo phái ly khai và hỗn chiến khắp Nam Kỳ lục tỉnh, chiến tranh liên miên, người dân đói khổ.

Nhìn lại nghìn năm lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Nam Kỳ nói riêng, hiếm có cục diện nào phức tạp đến vậy.

“Nhân vật anh hùng” nhiều như cá dưới các sông rạch miền Nam, các loại khẩu hiệu, các luồng tư tưởng, chủ nghĩa chính trị, các hệ ý thức, các chủ thuyết, học thuyết lẫn tà thuyết chính trị, các học thuyết nghiêm túc lẫn các học thuyết “mì ăn liền”, trăm hoa đua nở, không cần biết hoa hướng dương hay hoa cứt lợn, các loại âm thanh khác nhau khiến người nghe phải choáng váng không biết ai chính, ai tà, và đâu là đường ngay lẽ phải. Ai cũng muốn làm chính khách bước lên sân khấu, rống lên thật to âm thanh của bản ngã, nhân cơ hội thời loạn mà tìm kiếm lợi danh.

Đấy là một thời kỳ chất chứa tham vọng, một mồi lửa được chôn giấu trong khủng hoảng, và đấy cũng là một thời kỳ bấp bênh thối nát, trong một tòa lầu mục nát gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”, vẫn vang lên từng điệu nhạc trữ tình Bolero sến súa động lòng, với những vũ trường xa hoa đẹp rực rỡ, bất cứ ai nhìn thấy nó cũng sẽ không tin rằng cách đó không xa còn có những người lang thang đang vật vờ vì đói, giờ phút ấy họ đang nằm co ro trong một góc tối, chờ đợi đến sáng để xin ăn, chờ đợi lòng hảo tâm của tha nhân, lòng từ bi của những Phật tử qua đường.

Hiệp định Geneva không được thi hành đầy đủ, quân xâm lược mặc dù đang lũ lượt về nước, nhưng vấn đề độc lập – thống nhất của Việt Nam đã không được tôn trọng và tổng tuyển cử không được thực hiện như nội dung hiệp định. Bất cứ ai dám lên tiếng đòi thực thi hiệp định, đều bị “chụp mũ cối” thành bộ đội Cộng Sản và trấn áp thẳng tay.

Tuy nói rằng “Pháp đi, Mỹ đến”, nhưng trên thực tế, từ năm 1948 thì Mỹ đã bắt đầu can thiệp sơ khởi vào cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp. Đến năm 1950, Mỹ từng bước leo thang can thiệp sâu rộng hơn, cung cấp 78% kinh phí cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Nguyên nhân là vì Pháp không hề có đủ kinh phí trang trải cho cuộc chiến tranh viễn chinh này và tái thành lập hệ thống thuộc địa trên toàn cõi Đông Dương, trong khi nước Pháp vừa mới được giải phóng sau cuộc kháng chiến chống Đức và chính quyền Vichy tay sai Đức. Bao nhiêu tiền của đều đã được chi tiêu vào việc bảo vệ và tái thiết đất nước và phát triển kinh tế.

Mỹ giúp Pháp chủ yếu với 3 mục đích chính:

  • Vị trí chiến lược toàn cầu, bành trướng quyền lực quốc tế, muốn sử dụng Đông Dương và Việt Nam làm căn cứ quân sự của Mỹ, một căn cứ quyền lực bá quyền, nhằm đảm bảo cho tầm ảnh hưởng quyền lực của Mỹ ở một khu vực cách xa nửa vòng trái đất. Trong thư gửi Thủ tướng Anh Churchill ngày 4/4/1954, Tổng thống Mỹ Eisenhower viết: “Nếu người Pháp không thắng được trong cuộc chiến tranh này thì vị trí chiến lược toàn cầu của chúng tôi cũng như của các ngài có thể sẽ trở thành thảm họa.”
  • Chống Cộng Sản, chống Việt minh, chống cách mạng, chống và ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa đang lan tỏa khắp năm châu. Người Cộng Sản khởi sự làm việc lớn từ những bất công, áp bức, từ những nỗ lực chống ngoại xâm giành độc lập, chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, chống chiến tranh xâm lược, giải phóng thuộc địa để tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp xã hội và giải phóng con người nói chung. Do đó, muốn xâm lược thì phải chống Cộng Sản, muốn chống Cộng Sản thì phải đi xâm lược.
  • Mua lấy “cổ phần” tương lai của khu vực giàu tài nguyên này, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam. Mỹ đầu tư vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp với tính toán sau này sẽ chia phần với nhau các nguồn lợi tài nguyên, quyền lợi kinh tế, các lợi nhuận tài chính và lợi ích kinh doanh ở đây.

Tham vọng tài nguyên thuộc địa của chủ nghĩa thực dân trá hình và chủ nghĩa đế quốc Mỹ có thể thấy qua những diễn ngôn sau đây:

Ngày 12/2/1950, mục Xã Luận báo New York Times viết: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn, nó có thể xuất khẩu thiếc, vonfram, mangan, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu, và da thuộc. Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai II, lợi tức thu được ở Đông Dương đã tới khoảng 300 triệu đôla hàng năm.” (trên 3,2 tỷ USD theo thời giá năm 2020)

Tổng thống Mỹ Eisenhower trong diễn văn ngày 4/8/1953 tại thành phố Seattle, bang Washington, đã nói: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc, vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không thuộc về tay chúng ta nữa. Chúng ta đang tìm cách nào rẻ tiền nhất để ngăn chặn điều bất hạnh có thể xảy đến, đó là việc mất khả năng lấy được những thứ gì chúng ta muốn lấy từ số tài nguyên giàu có của Đông Dương và Đông Nam Á.”

Do Mỹ chính là “ví tiền” của Pháp ở Đông Dương, nên cuộc kháng chiến chống Pháp ở Đông Dương còn có một tên gọi chi tiết hơn: “cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954“.

Ngay trong cuộc chiến tranh chống Pháp, với thiên tư chính trị của mình, Cụ Hồ đã sớm nhìn thấy ý đồ chiến lược lâu dài của Mỹ đối với khu vực này.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trong khi quân và dân toàn quốc vui mừng phấn chấn tinh thần thì Cụ Hồ lại ưu tư và cẩn thận dặn dò rằng thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu, “chúng ta còn phải đánh Mỹ!”

Đến tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp trước khi Hiệp định Geneva được ký kết, thì lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận chính thức: Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương.

Ngay sau khi Pháp ký hiệp định, Cụ Hồ nói với các đồng chí cấp dưới rằng hội nghị ký hiệp định Genève thành công, nhưng chắc chắn sẽ làm cho người Việt Nam chưa vừa ý. Người Pháp có câu “Ai trả tiền, kẻ đó là chủ”. Mỹ sẽ thay thế Pháp, “chúng ta phải có sự chuẩn bị để đối phó với Mỹ”.

Trong khi mọi người, kể cả các lãnh đạo cao nhất cho rằng đây là thời điểm kết thúc cuộc chiến, thì Cụ Hồ lại đề tỉnh mọi người rằng chiến tranh chỉ mới bắt đầu, đây là thời điểm bắt đầu cuộc chiến mới.

Từ đó, Hồ Chủ tịch đã xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn này như sau: tiến hành đồng thời 2 chiến lược ở 2 miền nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.

Theo đó, mối quan hệ chiến lược giữa hai miền là: xây dựng miền Bắc để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam, miền Nam đẩy mạnh đấu tranh để giải phóng bản thân và cũng để bảo vệ miền Bắc. Miền Bắc có vai trò quyết định, miền Nam có vai trò trực tiếp.

Hậu Geneva, quân đội Pháp lần lượt ra đi, song tầm ảnh hưởng của Pháp thì vẫn hiện hữu. Họ chi tiền và âm thầm phát súng cho các lực lượng quân phiệt giang hồ, giáo phái, Bình Xuyên và Hòa Hảo, Cao Đài để thực hiện các mục tiêu quân sự thay cho thực binh Pháp.

Người Pháp lần lượt ra đi, thì người Mỹ lần lượt kéo vào, thay vào những chỗ trống, từng bước lấp đầy những khoảng trống quyền lực mà người Pháp để lại.

Lúc này người Pháp có hai lựa chọn:

  • Bàn giao quyền lực, quyền hành lại cho Mỹ, hoàn toàn bàn giao miền Nam, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống, lại cho Mỹ, để vãn hồi và hòa hảo lại quan hệ 2 nước, vốn đã trên đà rạn nứt trong những chương cuối của chiến tranh Đông Dương, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ cho việc tái thiết nước Pháp.
  • Mưu việc duy trì quyền lực và tầm ảnh hưởng của Pháp ở miền Nam Việt Nam, cả về chính trị và quân sự, bất chấp điều này có thể khiến Mỹ nghi kỵ, gây mất lòng Mỹ và tiêu cực cho mối quan hệ Pháp – Mỹ. Vô hình trung, Pháp đã bước vào cuộc tranh đua, tranh giành quyền lực mềm và tranh đoạt miền Nam VN với Mỹ, “cạnh tranh” với Mỹ trong việc độc chiếm miền Nam VN, đứng vững ở Việt Nam và khu vực.

Mâu thuẫn quyền lực hậu Geneva giữa Pháp và Mỹ không phải lúc này mới có, mà trước đó, trong cuộc chiến Đông Dương, Pháp – Mỹ vốn đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, xung đột về lợi ích, về đường lối chính trị, về chiến lược chiến tranh, về chiến thuật quân sự.

Sau khi Pháp thua, người Mỹ bất mãn, họ cho rằng tiền bạc và vũ khí “đầu tư” cho Pháp đều đổ sông đổ biển. Họ đã tốn kém bấy nhiêu tiền vào đây rốt cuộc Pháp để hỏng việc, mà họ cho rằng một phần là vì nhiều sĩ quan chỉ huy Pháp đã bỏ ngoài tai nhiều ý kiến, đề xuất của họ. Ngoài ra, nhiều tin tức tình báo mà CIA cung cấp cho Phòng nhì Pháp đã bị bỏ qua hoặc không được thực hành, giải quyết tốt.

Đến lúc này thì sự xung khắc giữa hai đại cường quốc này đã ngày càng lớn. Từ đó, ở miền Nam hình thành hai thế lực đối lập, thế lực mới (Mỹ) và thế lực cũ (Pháp). Mỹ thâu tóm nhiều tay sai cũ của Pháp, trong số đó có nhiều sĩ quan ngụy đã từng học bên Pháp và có Pháp tịch. Lúc bấy giờ thế và lực của nước Mỹ đã rất cao, còn Pháp thì bị chê là loại thực dân cũ kỹ, lại để thua Việt minh, đang trên đà suy tàn và sớm muộn gì cũng bị Mỹ bức lui. Vì thế, nhiều tay sai cũ của Pháp đua nhau “nhảy sang thuyền mới”.

Miền Nam Việt Nam lúc này vẫn nằm dưới tầm ảnh hưởng quyền lực của Thực dân Pháp, vốn đã có gần 100 năm đứng vững tại đây. Còn Mỹ là người mới. Do đó, mục tiêu của Mỹ lúc này là bức lui Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam và hoàn toàn thay thế. Điều đó có nghĩa là từng bước đẩy lui quyền lực và thay dần vai trò của người Pháp ở miền Nam Việt Nam. Từ đó thay Pháp thiết lập ách thống trị thuộc địa trá hình và là một căn cứ quân sự, căn cứ chiến lược của Mỹ ở Việt Nam, Đông Dương và khu vực. Đồng thời giành quyền kiểm soát và quyền quyết định đối với các nguồn tài nguyên ở khu vực địa chính trị, địa kinh tế vô cùng quan trọng này. Và cũng để thuận lợi cho Mỹ trong việc thực thi chính sách chống cộng sản Việt Nam, chống cách mạng giải phóng dân tộc, chống lại phong trào giành độc lập dân tộc, và chính sách về chiến lược khu vực/toàn cầu, cũng như các mục tiêu khác trong khu vực giàu tài nguyên này.

Để đạt được mục tiêu chính trị nói trên, đầu tiên Mỹ phải đưa người của họ lên thay người của Pháp (Bảo Đại), tiếp theo là thâu tóm các lực lượng vũ trang giang hồ và giáo phái vốn đang tạm thời cộng tác với Pháp, nhằm gạt bỏ hẳn tầm ảnh hưởng quân sự của Pháp ra khỏi những khu vực trong tầm ảnh hưởng, kiểm soát của Mỹ. Và thế là câu hỏi được đặt ra, Mỹ sẽ chọn ai để đưa lên?

Theo sách “Vietnam, a History” của nhà sử học Stanley Karnow, do NXB Edition King Press xuất bản năm 1983, khi được hỏi tại sao lại chọn ông Diệm mà không phải là một nhân tuyển khác, thì tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã trả lời: “Diệm là thằng con trai duy nhất mà chúng ta có ở đó”. (Diem is the only boy we’ve got out there).

Tổng thống Mỹ Johnson đã trả lời rất thật cho câu hỏi này. Vì tất cả các nhân tuyển, các quân cờ dùng được thì đều đã được người khác dùng rồi. Cựu hoàng Bảo Đại, ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã được phát xít Nhật dùng rồi (1945) đến thực dân Pháp dùng lại (1949). Nhà nho Trần Trọng Kim, là một sĩ phu thanh liêm, có chút uy tín qua việc viết sách, nhưng nhu nhược và ngây thơ non kém chính trị, đã bị phát xít Nhật lợi dụng và vắt sạch quả chanh.

Dùng lại những con cờ chính trị mà Nhật – Pháp đã sử dụng và bỏ rơi thì rõ ràng là không ổn, không phải là những quyết định sáng suốt và có lợi. Hơn nữa, cũng chưa chắc khả thi, vì Bảo Đại là tay sai trung thành của Pháp, mà lúc này Mỹ đang nỗ lực thay dần quyền lực của Pháp. Còn ông Trần Trọng Kim thì sau Cách mạng tháng Tám đã tỉnh ngộ ra phần nào nên đã buông bỏ chính trị mà chọn sống ẩn dật.

Như vậy, Mỹ chọn Diệm là vì lúc đó chỉ còn lại người này là nhân tuyển khả thi duy nhất mà tương đối hội đủ điều kiện, gia đình danh giá, quyền quý, có kinh nghiệm chính trị – quân sự nhiều năm. Ngô Đình Khả và các con em nhiều lần đi theo Nguyễn Thân khủng bố, đàn áp các lực lượng nghĩa quân. Họ có công lao rất lớn với Pháp trong việc đánh dẹp nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.

Ngày 13/1/1955, Ngô Đình Diệm, với cương vị là Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại (Pháp), công bố chính thức trên truyền thông Sài Gòn rằng Hoa Kỳ từ nay có toàn quyền về vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Sài Gòn thay cho người Pháp, vốn đã thành lập quân đội này năm 1948 để cầm súng đánh thuê cho Pháp, và để cho quân Pháp tiết kiệm được xương máu.

Ngày 12/2/1955, trong cuộc họp báo tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm công bố từ nay tướng John O’Daniel sẽ thay Pháp huấn luyện các lực lượng quân đội người Việt, và cả những sĩ quan con lai Pháp và công dân Pháp gốc Việt có Pháp tịch.

Trước mặt đại diện Hoa Kỳ, các sĩ quan Sài Gòn đã tổ chức đốt tượng trưng quân hàm, quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Tổng tham mưu. Thay vào đó là những phù hiệu mới của quân đội Mỹ.

Ngày 6 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố sẽ mở cuộc “trưng cầu dân ý”. Các cơ quan truyền thông Sài Gòn do Mỹ cấp chi phí cũng bắt đầu những chiến dịch thông tin nói xấu Bảo Đại và ca ngợi “thủ tướng anh minh” Ngô Đình Diệm, với những khẩu hiệu phát đi phát lại như: “Phiếu đỏ ta bỏ vô bì / Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi”.

Đó là vì có 2 lá phiếu: Một xanh, một đỏ. Lá màu đỏ in hình Ngô Đình Diệm với câu: “Tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”. Lá xanh in hình Bảo Đại thì có câu: “Tôi không bằng lòng truất phế Bảo Đại và không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”.

Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Mỹ-Diệm dàn dựng cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận. Trước đó họ đã cho cảnh sát gõ cửa từng nhà “vận động” người dân đi ghi tên và bầu cử, bắt giam những người chống lại với lý do tình nghi Cộng sản nằm vùng, họ cho dân Công giáo di cư 1954 – vốn nhiều người chống cộng sản và ủng hộ gia đình Diệm – đi đầu “bỏ phiếu” rồi ghi hình, chụp ảnh.

Cuộc bỏ phiếu đã trở thành scandal quốc tế gây nhiều chế giễu và đàm tiếu, vì ban tổ chức đã sắp xếp quá vụng về, lộ liễu để Ngô Đình Diệm tuyệt đối thắng. Ngô Đình Diệm “đắc cử” với “98,2%” số phiếu. Đại tá CIA Edward Lansdale trước đó đã bảo Diệm rằng: “Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì biết đó là kế hoạch sắp đặt trước”.

Đại tá Lục quân Hoa Kỳ, tiến sĩ Spencer C. Tucker trong sách Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do ABC-CLIO xuất bản năm 2000 và sử gia Stanley A. Karnow trong sách Vietnam: A history (Việt Nam: 1 lịch sử) do Penguin Books xuất bản năm 1997, đã ghi nhận cái gọi là “trưng cầu dân ý” này còn có những gian lận vụng về, lộ liễu khác, như ở Sài Gòn, Diệm công bố được “605.025″ phiếu trong khi khu vực này có chưa tới 450.000 cử tri ghi tên.

Sau khi hoàn thành vụ lừa đảo chính trị, Diệm công bố rằng có đến “98,2%” số phiếu ủng hộ ông ta, kết quả là Bảo Đại, người của Pháp, bị phế bỏ. Còn Ngô Đình Diệm, người của Mỹ, được đưa lên đứng đầu. “Quốc Gia Việt Nam” được đặt “quốc hiệu” mới: “Việt Nam Cộng Hòa”.

Cuối tháng 4 năm 1956, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Một phần vì áp lực của Mỹ, một phần do vẫn muốn duy trì ảnh hưởng trong ngụy quân và ngụy quyền đã từng dưới quyền của họ, nên chính phủ Pháp đã bàn giao lại phi cơ, tàu chiến, các loại xe quân sự, dụng cụ chiến tranh cho quân đội ngụy đang được Mỹ xây dựng và tổ chức lại.

Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp của Pháp – Mỹ (TRIM) trước đây đã chuyển thành “Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân” (CATO – Combat army training organization) gồm toàn người Mỹ. Đến tháng 3/1956 số lượng sĩ quan chỉ huy Mỹ đã từ 351 người lên 1550 người.

Cơ quan trung ương CATO do tướng Samuel Williams phụ trách, gồm 170 sĩ quan (3 tướng và 167 tá), phân ra nắm mọi ngành. Bên cạnh mỗi bộ tư lệnh quân khu có một đại tá và nhiều sĩ quan khác. Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ có từ 3 đến 5 trung tá. “Cố vấn” Mỹ lúc này chỉ nắm cấp trung đoàn, chưa nắm cấp tiểu đoàn.

Tiếp tục lộ trình đẩy lui Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ bắt đầu từng bước gạt bỏ các lực lượng vũ trang thân Pháp, sử dụng quân đội Sài Gòn tảo thanh và thôn tính các lực lượng này. Đồng thời cũng để làm sạch đi phần nào những vết nhơ, tai tiếng về quá khứ làm quan, làm “thủ tướng” cho thực dân Pháp của Diệm và gia đình họ Ngô.

Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đóng ở Rạch Tràm, thuộc xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An và huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho đã họp và nhất trí như sau: Thời gian này, nội bộ giặc đang có những diễn biến phức tạp, bọn tay sai của Pháp và của Mỹ có khả năng sẽ xung đột với nhau. Bọn theo Mỹ đã mạnh lên, hơn hẳn bọn theo Pháp. Nhưng bọn theo Pháp cũng không dễ dàng đầu hàng, vì chúng có võ trang khá mạnh, lại chiếm cứ những vùng đông dân. Chắc chắn bọn chúng sẽ đánh nhau và điều này có lợi cho cách mạng, ta cần phải lợi dụng tình hình.

Ngày 29 và 30/3/1955, Mỹ-Diệm chiếm trung tâm cảnh sát, đẩy lùi quân Bình Xuyên thân Pháp của Bảy Viễn về phía Chợ Lớn. Đồng thời mua chuộc cảnh sát trưởng Lại Hữu Sang từng làm việc cho phòng nhì Pháp. Về cơ bản đã cắt bỏ quyền kiểm soát của Pháp và Bình Xuyên đối với trung tâm cảnh sát.

Đối với liên minh Cao Đài, Mỹ-Diệm dùng nhiều đô la Mỹ chiêu hàng được tướng Trình Minh Thế, rồi dùng Trình Minh Thế đánh bại Bình Xuyên, Bảy Viễn trốn sang Pháp sống lưu vong. Sau đó Mỹ-Diệm giết Trình Minh Thế rồi đổ cho Pháp. Con trai ông Trình Minh Thế là ông Trình Minh Sơn ở Quebec, Canada đã vạch trần và tố cáo tội ác Mỹ-Diệm giết cha mình trên Thời báo Asia (số 22/11/2003) và nguyệt san Làng Văn, Canada (số 232, tháng 12 năm 2002).

Đối với Cao Đài phe Tây Ninh, Mỹ cũng nhanh chóng chia rẽ và mua chuộc thành công Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất. Giáo chủ Cao Đài Tây Ninh là Hộ pháp Phạm Công Tắc không chịu cộng tác với Mỹ-ngụy, đã lánh sang Campuchia.

Ngày 6/5/1955, Mỹ đưa quân ngụy đi tảo thanh dư đảng Bình Xuyên ở cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường và Xóm Củi (Chợ Lớn), quân Bình Xuyên thua chạy về Gò Công và rừng Sác. Đến ngày 24/10/1955 thì lực lượng Bình Xuyên toàn quân bị tiêu diệt. Riêng quân Bình Xuyên do ông Bảy Môn chỉ huy thì trước đó đã được lực lượng chống Mỹ thuyết phục và đã sớm rút sang Thị Vải để dựa vào cách mạng và đồng bào chống Mỹ-Diệm. Con trai của Bảy Viễn là tham mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên cũng tử trận trong chiến dịch này.

Sau khi tiêu diệt Cao Đài và Bình Xuyên, Mỹ-Diệm bắt đầu thanh toán Hòa Hảo. Lực lượkng võ trang Hòa Hảo đến thời điểm này đã có 3 nhóm biệt lập là Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê Quang Vinh (Ba Cụt) và Hai Ngoán. Ngày 20/5/1955, quân ngụy dưới sự chỉ huy của các sĩ quan “cố vấn” Mỹ, tổng tấn công vào cả ba nhóm Hòa Hảo cùng một lúc.

Nhóm của Hai Ngoán yếu nhất nên thất trận và bị chiêu hàng nhanh chóng. Hai nhóm Năm Lửa và Ba Cụt tuy khá mạnh nhưng cũng bị thua, bèn trốn vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống Mỹ-Diệm. Cả Năm Lửa và Ba Cụt đều cử người bắt liên lạc với lực lượng cộng sản miền Nam để tìm kiếm sự ủng hộ.

Phía cộng sản cho rằng nên giúp đỡ phe yếu thế, gây khó khăn thêm cho Mỹ, nên đã đồng ý trợ giúp, cung cấp lương thực nuôi mấy ngàn quân Hòa Hảo. Được các cán bộ quân sự của cộng sản vốn già dặn kinh nghiệm sau 9 năm đánh Tây giúp sức, lực lượng Hòa Hảo đã thoát nguy và thắng lại được một số trận như Xảo Xáu (Giồng Riềng), Vườn Cỏ (Long Mỹ), Cây Bàng (An Biên). Tuy nhiên, người cộng sản không trực tiếp cầm súng chiến đấu.

Vậy tại sao phía cách mạng không trực tiếp tham chiến? Có hai nguyên nhân:

  • Lúc bấy giờ chính sách của Trung ương ở Hà Nội, được truyền đạt lại bởi các Đảng bộ miền Nam là thuần túy đấu tranh chính trị đòi thực thi hiệp định Geneva, tổng tuyển cử thống nhất đất nước trong hòa bình, chưa cho phép đấu tranh vũ trang.
  • Không có lợi cho cách mạng. Ngồi xem Pháp – Mỹ đấu nhau, tay sai của họ bắn nhau, đồng thời bảo tồn thực lực mới là thượng sách.

Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã quyết tâm bình định miền Nam, do bị đánh quá ráo riết và bất mãn với sự án binh bất động của phía cộng sản, Năm Lửa đem 4000 quân đầu hàng Mỹ-Diệm. Lực lượng Ba Cụt ở Kiên Giang với nòng cốt là trung đoàn Lê Quang Vinh vẫn liều chết chống giữ.

Ngày 13/4/1956, Ba Cụt bị “phó tổng thống” ngụy quyền Nguyễn Ngọc Thơ dùng tình bạn thân lừa ra Cần Thơ để nhận chức trung tướng và bị cậu bạn thân cho lính bắt ở Chắc Cà Đao. Đến ngày 13/7/1956, Ba Cụt bị xử chặt đầu ở Cần Thơ dưới máy chém, theo cách hành quyết của thời trung cổ. Lực lượng vũ trang Hòa Hảo của Ba Cụt một số ra hàng Mỹ-ngụy, số lớn tan rã, số còn lại khá đông theo về với cách mạng, gia nhập các lực lượng kháng chiến chống Mỹ.

Sau sự kiện này, về quân sự, cơ bản Mỹ đã khá thành công với mục tiêu thay thế Pháp. Ảnh hưởng quân sự của Pháp trong vùng tạm chiếm bị suy giảm đáng kể. Và sau 1961 thì có thể nói Mỹ đã hoàn thành việc thay thế Pháp cả về chính trị và quân sự, bắt đầu một chương mới của cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Sưu tầm

(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

Chiến tranh Việt Nam hay kháng chiến chống Mỹ? Vì sao có hai tên gọi khác nhau?

Đây là câu hỏi không chỉ có trong các diễn đàn và mạng xã hội trên internet. Trước đây, khi tôi còn sinh hoạt trong Vietnam War Club và Hội cựu sinh viên Trường đại học Texas A&M, thì chúng tôi cũng nhận được những câu hỏi như vậy từ các sinh viên bản xứ cũng như du học sinh các nước. Không ít bạn trẻ người Mỹ gốc Việt cũng có câu hỏi này, tại sao Mỹ thì gọi là “Vietnam War”, còn bên Việt Nam thì lại gọi là “Anti-American Resistance War”?

Thật ra, câu trả lời đơn giản hơn bạn nghĩ.

Trong các cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ tiến hành, như chiến tranh Việt Nam (Vietnam War), chiến tranh Iraq (Iraq War), chiến tranh Afghanistan (Afghanistan War), hoặc là có liên quan nhiều đến Hoa Kỳ, như Chiến tranh Thế giới (World War), chiến tranh Đông Dương (Indochina War) v.v., thì đều được gọi tên theo ngôi thứ nhất của Mỹ, theo mô-típ quân đội Mỹ tiến hành chiến tranh ở đâu thì lấy địa danh ở đó gọi tên cuộc chiến.

Theo đó, khi nói chiến tranh Việt Nam, thì người đọc có thể hiểu được là địa điểm cuộc chiến tranh Việt Nam.

Hoa Kỳ là siêu cường duy nhất trên thế giới kể từ sau Chiến tranh Thế giới 2, và dưới tầm ảnh hưởng bao quát của truyền thông chủ lưu Mỹ, phần lớn quốc tế cũng chịu ảnh hưởng từ cách gọi tên các cuộc chiến tranh của Mỹ theo ngôi thứ nhất của họ.

Ngôi thứ nhất tiếng Anh là “First-Person Point of View” (góc độ nhìn thứ nhất).

Như vậy, nếu hiểu được Vietnam War (tiếng Việt: Chiến tranh Việt Nam) là cách gọi xuất phát từ góc độ nhìn thứ nhất từ phía Mỹ, thì suy ra sẽ dễ hiểu được vì sao người Việt Nam lại gọi là kháng chiến chống Mỹ, theo ngôi thứ nhất, góc nhìn thứ nhất từ phía Việt Nam.

Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam thì họ gọi đó là “chiến tranh Việt Nam”.

Việt Nam tiến hành chiến tranh phản kháng chống Mỹ thì gọi đó là “kháng chiến chống Mỹ”.

Vậy tại sao còn có cách gọi “kháng chiến chống Mỹ cứu nước”?

Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cách gọi nghe thuận tai và có tính chất văn học nghệ thuật, hoặc ở trong những ngữ cảnh mà cần phải nhấn mạnh, làm rõ động cơ, động lực của cuộc kháng chiến chống Mỹ, bởi vì trong thời điểm chiến tranh có nhiều tuyên truyền chính trị cho rằng Việt Nam dân chủ cộng hòa chống Mỹ là chống cho Liên Xô, cho Trung Quốc, chống vì những lý do khác nhau. Do đó, cách gọi “kháng chiến chống Mỹ cứu nước” thường được sử dụng trong những ngữ cảnh mà người viết thấy cần thiết phải nhấn mạnh, làm rõ vấn đề kháng chiến chống Mỹ là để cứu nước.

Như vậy, cách gọi kháng chiến chống Mỹ cứu nước đơn giản là một cách gọi tên có tính chất nghệ thuật hoặc là chính trị, nhằm phục vụ cho mục đích nghệ thuật hoặc chính trị.

Nguyễn Nhu

(cộng tác viên)

Vì sao Việt Nam và quốc tế không sử dụng danh từ “Việt Nam Cộng hòa”?

vietnam war

Đã 46 năm trôi qua, ở Việt Nam ngày nay đã không còn khói lửa chiến tranh, nhưng đối với rất nhiều người Việt Nam, đặc biệt là những người đã từng được hòa mình vào cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, trong tâm khảm họ vẫn đầy ắp những hoài niệm cũ về một thời kỳ tiếng hát át tiếng bom.

Cách đây 46 năm, người Việt Nam đã hoàn thành một trong những chiến thắng khó tin nhất trong lịch sử Việt Nam và thế giới, khiến cho dư âm của “Chiến tranh Việt Nam” và tên tuổi “Hồ Chí Minh”, “Võ Nguyên Giáp” vang vọng khắp năm châu từ đó đến nay.

Vào những ngày cuối tháng tư năm 1975, chính phủ của Tổng thống Gerald Ford đã thất bại trong những nỗ lực cuối cùng để thuyết phục lưỡng viện Quốc Hội. Ngay sau đó, những người Mỹ cuối cùng đã phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Mỗi dịp tháng tư về thì Cổng thông tin tư liệu về Chiến tranh Việt Nam và nhiều nơi đều có những bài viết về cuộc chiến tranh được xem là “châu chấu đá xe”, “David chống Goliath” này. Trong bài viết này, chúng ta cùng tìm hiểu về một câu hỏi có lẽ còn chưa được quan tâm đúng mức: Tại sao phần lớn ngành sử học Việt Nam và quốc tế đều không đồng thuận với danh xưng “Việt Nam Cộng hòa”?

“Việt Nam Cộng hòa” trước năm 1975 là một quốc hiệu/tên nước tự xưng, danh từ này bị lãng quên một thời gian dài cho đến khi xuất hiện trên internet, khi các trang web tiếng Việt ở Mỹ phủ sóng internet những năm 2000. Người Việt ở Mỹ, đặc biệt là các tổ chức hoạt động chính trị, vốn dồi dào điều kiện kỹ thuật và vật chất khi đó, đã nhanh chóng giành lấy khoảng trống internet và thiết lập luật chơi trên các diễn đàn và phòng chat.

Từ đó, nhiều diễn đàn trong nước vì muốn được đông người và có sự tranh cãi sôi nổi để câu khách, đã mời mọc nhiều người Việt ở Mỹ, người Mỹ gốc Việt vào diễn đàn tham gia sinh hoạt. Họ bắt đầu sử dụng danh từ “Việt Nam Cộng hòa” thay thế cho “chính quyền Sài Gòn” hay “chính quyền ngụy”, thậm chí, để lấy lòng những người ở Mỹ, công dân Mỹ gốc Việt, một số diễn đàn còn đặt ra luật cấm sử dụng cụm từ “ngụy quân, ngụy quyền”.

Kể từ đó, danh từ “Việt Nam Cộng hòa”, với sự tiếp tay của Wikipedia tiếng Việt, một cộng đồng có nhiều điều tiếng trong cộng đồng Wikipedia quốc tế, đã trở nên khá phổ biến trên internet và mạng xã hội.

Tuy nhiên, khác với mạng xã hội tiếng Việt, mạng xã hội tiếng Anh cho đến nay vẫn không sử dụng danh từ “Republic of Vietnam” (“Việt Nam Cộng hòa”) để thay thế cho “South Vietnam” (“Nam Việt Nam”) hay “Saigon government” (“chính quyền Sài Gòn”), cộng đồng mạng tiếng Anh vẫn trung thành với cách gọi truyền thống.

Việc tài liệu chính thống Việt Nam từ thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đến ngày nay đều nhất quán không sử dụng tên gọi “Việt Nam Cộng hòa” là điều mà ai cũng có thể liệu trước, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được một danh từ “Việt Nam Cộng hòa” nào trong Hồ Chí Minh toàn tập hay các tài liệu tuyên huấn, giáo khoa, có tính chất chuyên môn, hàn lâm trong ngành khoa học lịch sử ở Việt Nam.

Tuy nhiên, điều ít người để ý hơn nữa ngay cả sách báo, truyền thông chủ lưu của quốc tế, chủ yếu là tiếng Anh, cũng không sử dụng tên gọi “Republic of Vietnam” (tiếng Việt: “Việt Nam Cộng hòa”, tên chính thức để quan hệ quốc tế của chính quyền Sài Gòn).

Tại sao lại như vậy? Phải chăng đó là sự “kiêng kỵ” hay “né tránh” vì vấn đề đạo đức, vấn đề quan điểm – lập trường, hay phải chăng vì đó là một danh xưng nhạy cảm về chính trị? Theo sự tìm hiểu của chúng tôi, có 2 nguyên nhân chính như sau:

Bản chất thực tế của chính quyền Sài Gòn

“Việt Nam Cộng hòa” là tên nước của một quốc gia, nhưng nó lại không phản ánh thực tế bản chất của một quốc gia đúng nghĩa, hay hội tụ đầy đủ các điều kiện của một quốc gia độc lập.

Đây là một chính quyền tồn tại ngắn ngủi từ năm 1955 đến 1975, là một phiên bản chắp vá của chính quyền Bảo Đại với tên nước “Quốc gia Việt Nam”, được thực dân Pháp dựng lên năm 1949, và được chính phủ Mỹ tái lập, dựng lại vào năm 1955 qua một cuộc “trưng cầu dân ý” giả hiệu, một cuộc tranh cử gian lận.

Trong 20 năm tồn tại, nó chưa bao giờ có khả năng tự thân tồn tại, tự nuôi nổi thân mình.

Trong hồi ký “Khi đồng minh tháo chạy”, ông Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát triển của chính quyền Sài Gòn, đã giải thích tường tận hơn: “Trên 75% ngân sách quốc phòng (gồm việc trả lương cho quân đội) là từ viện trợ Mỹ. Toàn bộ quân trang, quân dụng, từ khẩu súng, viên đạn, lít xăng tới xe tăng, đại bác, máy bay, cái gì cũng có nhãn hiệu MDAP của Mỹ. Về mặt kinh tế, khi chiến tranh leo thang, sản xuất trong nước không phát triển, lại còn tụt hậu, cung ứng cho nhu cầu của người dân phải dựa vào đô-la của Mỹ để nhập cảng. Những sản phẩm cho nhu cầu từ ăn, ở, mặc tới vận chuyển, một tỷ lệ rất quan trọng được đáp ứng từ viện trợ Mỹ. Đó là chưa nói tới các nhu cầu khác như y tế, giáo dục, giải trí. Như vậy, về vật chất, sự lệ thuộc Mỹ hầu như là toàn diện. Tình trạng này lại còn dẫn tới sự lệ thuộc về tinh thần và tâm lý. Nếu Mỹ còn giúp, thì các nhà lãnh đạo và dân, quân miền Nam còn chịu đựng, chiến đấu. Nếu có dấu hiệu họ bắt đầu bỏ, thì tinh thần bắt đầu sa sút. Tới lúc bỏ thật là sụp đổ.”

Tháng 4, 1975, sau khi chính phủ Mỹ thất bại trong việc thuyết phục Quốc Hội duy trì cuộc chiến, người Mỹ cuối cùng cũng “bỏ thật”, và ngay sau đó là một trong những chiến dịch quân sự thần tốc nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới, và một trong những sự sụp đổ chế độ nhanh nhất trong lịch sử chính trị thế giới, và một sự tháo chạy hỗn loạn, vô trật tự, vô nguyên tắc, vô tổ chức, và vô kỷ luật nhất trong lịch sử quân sự thế giới. Những chiếc mũ sắt, súng trường, quần áo lính được vứt bừa bãi ngoài đường phố cùng với những cảnh tượng mà đến nay trong dân chúng vẫn có những câu nói hoặc từ ngữ, cụm từ được dùng để mô tả và chế giễu.

Ông Nguyễn Tiến Hưng trong hồi ký “Từ tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập” đã công bố nhiều thông tin cho thấy chính quyền Sài Gòn hoàn toàn không có năng lực tự sinh tồn, sự sinh tồn của họ hoàn toàn lệ thuộc vào sự nuôi dưỡng (cả viện trợ kinh tế và viện trợ quân sự) của Hoa Kỳ. Cụ thể hơn, trong bản báo cáo để xin tiền sau khi người Mỹ giảm viện trợ quân sự (không có giảm viện trợ kinh tế) xuống 700 triệu USD, ông Nguyễn Văn Thiệu báo cáo cụ thể:

“Nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có thể giữ được các vùng đông dân cư tại bốn vùng chiến thuật.

Nếu mức viện trợ quân sự xuống 1,1 tỷ USD thì có thể không giữ được Quân khu I.

Nếu mức Viện trợ quân sự còn 900 triệu USD thì khó giữ được Quân khu I, Quân khu II.

Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 750 triệu USD thì chỉ có thể phòng thủ một vài khu vực.

Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 600 triệu USD thì chỉ còn có thể giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.”

Xin lưu ý đây vẫn là những số tiền đáng kể theo thời giá năm 1975.

Như vậy, theo phép suy luận thông thường, có thể thấy được là kẻ bỏ tiền ra nuôi chính là người chủ, là người có quyền ở miền Nam Việt Nam, mà không phải là kẻ được nuôi. Theo đó, Mỹ là người quyết định, người phán xử, người chi tiền, người làm chủ ở miền Nam Việt Nam, mà không phải là chính quyền Sài Gòn, người cộng sự, phục vụ Mỹ.

Về quân sự cũng vậy, nếu không được thực dân Pháp thành lập năm 1948, nếu không được quân đội Mỹ trang bị và huấn luyện, trả lương, thì quân đội Sài Gòn cũng không thể tồn tại.

Một khi đã hiểu rõ được vấn đề cơ bản và chính yếu đó, thì người ta sẽ hiểu rõ được cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc kháng chiến nhằm đánh đuổi ngoại xâm, trục xuất ách thống trị ngoại thuộc ở miền Nam Việt Nam, làm thất bại sự chiếm đóng và kiểm soát miền Nam của Mỹ, giành lấy quyền độc lập thực tế sau khi đã giành được độc lập về pháp lý với Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc năm 1945.

Như vậy, chính quyền Sài Gòn là một thực thể chính trị bù nhìn, một chính quyền bù nhìn lệ thuộc Mỹ, hay nói trực tiếp hơn, là một ngụy quyền tay sai của Mỹ. Cụm từ quen thuộc thường được nghe khi nói về đối tượng mà Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân Giải Phóng tiến hành chiến tranh chống lại là “đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai“.

Một khi lũ tay sai đó lại được gọi bằng cái tên nước tự xưng đó, một cách tỏ ra ưu ái và hàm ý tôn trọng, thì mặc nhiên nó trở thành một chuyện không hợp tình hợp lý và thiếu nhất quán, đưa đến sự thiếu tin tưởng và lòng tin bị rạn nứt, “người xưa nói sai”, không còn tin vào người xưa nữa, rồi từng bước đi theo những con đường đối kháng với nền chính trị hiện hành. Do đó, yếu tố chính trị cũng đóng một vai trò không nhỏ trong việc không sử dụng danh từ “Việt Nam Cộng hòa”.

Sử dụng danh từ “Việt Nam Cộng hòa” thông thường sẽ đưa tới việc quảng bá một hình ảnh không chính xác về chính quyền Sài Gòn, và điều đó thường sẽ dẫn tới việc hiểu không chính xác về cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Nhìn chung, với bản chất bù nhìn lệ thuộc và là công cụ được quân xâm lược sử dụng, chính quyền Sài Gòn đã không được Việt Nam và quốc tế gọi bằng danh xưng “Việt Nam Cộng hòa” (“Republic of Vietnam”). Và đó là một trong hai nguyên nhân chủ yếu.

vietnam war
Người dân Mỹ châm biếm “con rối Sài Gòn” trong một cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam.

Bản chất phi pháp của chính quyền Sài Gòn

Trên khía cạnh pháp lý quốc gia ở Việt Nam, quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thiết lập tính chính danh của mình và xác lập chủ quyền trên cả nước qua những sự kiện chính trị sau:

Trong thời Pháp thuộc, lực lượng cộng sản Việt Nam đã tiên phong lãnh đạo người dân chống Pháp – Nhật trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), phong trào dân chủ Đông Dương (1936-1939), khởi nghĩa Nam Kỳ (1940), khởi nghĩa Bắc Sơn (1940), phong trào kháng Nhật cứu nước (1945), khởi nghĩa Ba Tơ (1945).

Sau thành công của Cách mạng tháng tám trên cả nước, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố độc lập với Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trước quốc dân đồng bào, thành lập nhà nước, bầu cử Quốc Hội, hoàn thành Hiến Pháp, ban bố luật pháp, thiết lập chính phủ trung ương, xác lập chủ quyền từ năm 1945.

Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử Việt Nam vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, tại kỳ họp thứ 2. Từ đó, Quốc hội đã hoạt động liên tục một cách hợp hiến, hợp pháp cho đến ngày nay.

Nhiều văn bản pháp lý và văn kiện có tính pháp lý năm 1946 đã xác lập chủ quyền của Việt Nam dân chủ cộng hòa trên toàn quốc: Sắc lệnh 229/SL của chủ tịch Hồ Chí Minh quy định các cơ quan quân sự trên tất cả mọi miền Việt Nam đều trực thuộc Bộ Quốc Phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tháng 11/1946), Tuyên cáo 12 khu hành chính của VNDCCH trên cả nước cũng vào tháng 11/1946. Sau này, trong cuộc chiến chống Mỹ, Hiến Pháp 1959 cũng đã kế thừa nội dung của Hiến Pháp 1946 và khẳng định lại những nguyên tắc trên.

Tất cả những hành động chính trị đó của Chính phủ và Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm chiến công lãnh đạo toàn dân toàn quốc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi vào năm 1954 sau chiến dịch Điện Biên Phủ nổi tiếng thế giới, đã hoàn toàn xác lập chủ quyền với tư cách là một Nhà nước độc lập và thống nhất từ Bắc chí Nam theo luật pháp Việt Nam (1946) và thông lệ, tập quán quốc tế.

Trên khía cạnh pháp lý quốc tế, sau khi thành lập nước Trung Hoa mới, việc làm đầu tiên của Trung Quốc là công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với tư cách quốc gia. Sau đó, Trung Quốc đã vận động Liên Xô công nhận Việt Nam. Đây là một đột phá, một bước ngoặt lịch sử có tính thời đại về quan hệ Việt – Trung, Việt – Nga và quan hệ quốc tế.

Sau hàng nghìn năm quan hệ quốc tế chủ yếu với Trung Quốc và các nước lân cận, cũng như giao thương với các nước ở xa, thì đó là lần đầu tiên có một nước ngoài công nhận Việt Nam là một nước độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với tư cách quốc gia, mở ra những cơ hội mới và nối cầu cho những mối quan hệ khác trên trường quốc tế.

Xin lưu ý rằng nếu đặt trường hợp không có Trung Quốc, Liên Xô hoặc một nước nào công nhận và thiết lập quan hệ với Việt Nam, thì sự tuyên bố độc lập và những hành động xác định, thực thi và thiết lập chủ quyền của Việt Nam từ năm 1945 trở đi vẫn tương thích với tập quán quốc tế và luật pháp quốc tế, và vẫn có giá trị trên trường quốc tế.

Về chính trị, nếu sử dụng tên nước “Việt Nam Cộng hòa”, thì có thể được hiểu rằng đó là sự công nhận – dù gián tiếp hay trực tiếp – tư cách quốc gia của chính quyền Sài Gòn. Một khi đã công nhận nó là một nước thì đồng nghĩa với việc viết lại câu chuyện trước năm 1975, câu chuyện về một nhà nước này xâm lược và thôn tính một nhà nước kia, và như thế thì mặc nhiên quốc gia CHXHCN Việt Nam, tên mới của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, là một quốc gia không hợp pháp, không chính danh, có được vị trí lãnh đạo và quản lý đất nước ngày nay là nhờ đi xâm lược, cướp nước.

Trong thời đại Hồ Chí Minh, có hai hiệp định quốc tế quy định việc giải quyết chiến tranh và các vấn đề chính trị trên lãnh thổ Việt Nam, đó là hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954, hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973. Và không có hiệp định nào công nhận chính quyền Sài Gòn là một nhà nước (quốc gia).

Chính quyền Sài Gòn trong thời điểm diễn ra hội nghị Genève vẫn còn chưa được thành lập, trong khi tiền thân của nó, chính quyền Bảo Đại thì không có chữ ký trong hiệp định Genève. Và nội dung của hiệp định này cũng không ghi chép về chính quyền Bảo Đại hay chính quyền Sài Gòn. Nội dung hiệp định cũng không có danh từ “Quốc gia Việt Nam” hay “Việt Nam Cộng hòa”.

Việc Mỹ và chính quyền Sài Gòn từ chối tổng tuyển cử theo hiệp định Genève mà tự ý tiến hành cuộc tranh cử gian lận có tính chất “luật rừng” năm 1955 là một hành động tự tiện và không hợp pháp, vì nó không dựa trên hiệp định Genève, một hiệp định quốc tế có giá trị pháp lý quốc tế, nhằm giải quyết các vấn đề chính trị ở Đông Dương theo luật pháp quốc tế.

Do đó, nếu đặt giả định là không có vai trò chủ đạo của Mỹ, thì sự ly khai của chính quyền Sài Gòn năm 1955 vẫn là bất hợp pháp, cả luật pháp Việt Nam và luật pháp quốc tế.

Trong hội nghị Paris, Việt Nam vì muốn nhượng bộ để cho lính Mỹ rút về, nên đã công nhận chính quyền Nguyễn Văn Thiệu là một thành phần chính trị có đủ tư cách tham gia quá trình thành lập chính phủ 3 thành phần ở miền Nam Việt Nam, theo nội dung quy định trong hiệp định Paris.

Việc cho phép thành phần chính trị bù nhìn đó tham gia thành lập chính phủ 3 thành phần dự kiến thành lập sau khi Mỹ rút quân về hoàn toàn khác với việc công nhận nó đã là một chính phủ rồi, và hoàn toàn không bất kỳ một nội dung nào trong hai hiệp định này công nhận chính quyền Sài Gòn với tư cách là một chính phủ hay quốc gia (nhà nước).

Việc cho phép thành phần chính trị Nguyễn Văn Thiệu tham gia vào quá trình thành lập chính phủ 3 thành phần nói trên đã tương đối đặt ngang chính quyền Sài Gòn trở thành một lực lượng đối lập với Chính phủ cách mạng lâm thời của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng MNVN và lực lượng thứ ba, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam, mà không phải là đối lập với Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, Mỹ là chủ thể chính, là đối tượng chiến tranh đối lập với Việt Nam dân chủ cộng hòa, còn chính quyền Sài Gòn là vai phụ nằm trong hàng ngũ Mỹ, là công cụ phục vụ Mỹ ở phía bên kia chiến tuyến do Mỹ lãnh đạo, điều hành cuộc chiến.

Không ít người đã quan niệm không chính xác, không thực tế rằng chính quyền Sài Gòn có phần nào đó tương xứng và đối lập với Việt Nam DCCH, sau đó họ mới bán nước và mời, rước quân Mỹ vào nhà.

Trên thực tế, Mỹ là người chủ có quyền ở miền Nam Việt Nam, họ làm chủ miền Nam Việt Nam và do đó họ đưa quân vào như thể đưa quân vào một vùng đất đai lãnh thổ của mình. Họ muốn đến thì đến, muốn đi thì đi, không cần ai rước vào hay mời vào.

Và do đó, ở miền Nam VN, họ cũng không cần ký bất kỳ văn kiện pháp lý nào về việc thiết lập căn cứ quân sự, đóng quân ở nước sở tại, như Hiệp định phòng thủ chung, Thỏa thuận hợp tác quốc phòng (EDCA – Enhanced defense cooperation agreement), hay Thỏa thuận về trạng thái đóng quân (SOFA – Status of forces agreement), hay hiệp nghị cho thuê lãnh thổ, như họ đã ký với Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, và các nước khác nơi họ đóng quân và có căn cứ quân sự, theo tập quán quốc tế.

Nếu đặt trường hợp không có cuộc chiến tranh với Pháp, Mỹ, thì chính quyền Sài Gòn vẫn là một ngụy quyền ly khai bất hợp pháp, một tổ chức, lực lượng phiến quân nổi loạn, chống lại một Nhà nước hợp pháp và chính phủ trung ương, mà ngày nay thường được các nước đưa vào danh sách các tổ chức khủng bố.

Và cũng do hai hiệp nghị quốc tế nói trên, hầu hết quốc tế, bao gồm cả chính phủ Mỹ, đều không sử dụng quốc hiệu tự xưng “Việt Nam Cộng hòa” (“Republic of Vietnam”), mà họ sử dụng danh từ “Nam Việt Nam” (“South Vietnam”), với tư cách là một vùng miền chưa có trạng thái chính trị rõ ràng, ổn định, mà không phải tư cách quốc gia.

Ngoài ra, còn một danh từ khác cũng thường thấy trên sách vở tài liệu tiếng Anh về Chiến tranh Việt Nam là “Saigon government” (“chính quyền Sài Gòn”). Và còn một cụm từ ít phổ biến hơn, thường thấy trên truyền thông cấp tiến của cánh tả, là “Saigon puppet government” (“ngụy quyền Sài Gòn”).

Kết luận

Qua việc tìm hiểu sâu rộng hơn về đề tài này, chúng ta càng hiểu rõ hơn vì sao danh từ “Việt Nam Cộng hòa” không được sử dụng một cách chính thức, và qua đó sự thật ngày càng rõ ràng là trước năm 1975 thì miền Nam Việt Nam do nằm dưới sự cai trị và quyền kiểm soát của Mỹ, chính quyền tay sai nằm dưới quyền điều động và nuôi dưỡng của Mỹ, nên quân và dân cả nước Việt Nam, miền Nam cũng như miền Bắc, mới ủng hộ người Cộng Sản kháng chiến để giải phóng dân tộc và giải phóng quê hương nhà.

Đó không phải là một cuộc nội chiến tương tàn rồi sau đó một bên đối lập mới bán nước và đón rước quân đội ngoại bang vào can thiệp chuyện trong nhà.

Đó càng không phải là một cuộc chiến tranh xâm lược và cưỡng chiếm miền Nam từ miền Bắc như những người chống Cộng cực hữu hay dạy con cháu của họ.

(Sưu tầm tổng hợp từ nhiều nguồn)

Việt Nam đã “lọt vào mắt xanh” của Mỹ như thế nào?

Chien tranh Viet Nam

Từ giữa thế kỷ 19, thực dân Pháp và tư bản phương Tây đã chạy đua tranh đoạt giành nhau thị trường ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, trong đó Đông Dương và Việt Nam chiếm một vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về địa chính trị, địa kinh tế, giàu tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân công lao động “rẻ mạt”.

Trong thời gian can thiệp ở Việt Nam từ năm 1950 đến 1975, và cả trước đó, Hoa Kỳ đã quan tâm đến những nguồn lợi ở Việt Nam và khu vực Đông Dương, các nguồn tài nguyên, khoáng sản, các sản phẩm chiến lược, lúa gạo, cao su, những nguồn cung cấp nhân công, thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa.

Ngày 12/2/1950, mục Xã Luận báo New York Times viết: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn, nó có thể xuất khẩu thiếc, vonfram, mangan, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu, và da thuộc. Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai II, lợi tức thu được ở Đông Dương đã tới khoảng 300 triệu đôla hàng năm.” (trên 3,2 tỷ USD theo thời giá năm 2020)

Tổng thống Mỹ Eisenhower trong diễn văn ngày 4/8/1953 tại thành phố Seattle, tiểu bang Washington đã nói: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc, vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không thuộc về tay chúng ta nữa. Chúng ta đang tìm cách nào rẻ tiền nhất để ngăn chặn điều bất hạnh có thể xảy đến, đó là việc mất khả năng lấy được những thứ gì chúng ta muốn lấy từ số tài nguyên giàu có của Đông Dương và Đông Nam Á.”

Thư của Eisenhower gửi thủ tướng Anh Churchill ngày 4/4/1954 viết: “Nếu người Pháp không thắng được trong cuộc chiến tranh này thì vị trí chiến lược toàn cầu của chúng tôi cũng như của các ngài có thể sẽ trở thành thảm họa.”

Phát biểu tại Quốc hội Mỹ năm 1956, ông John Kennedy, khi đó là thượng nghị sĩ, sau này là Tổng thống, nói: “Nam Việt Nam đang giới thiệu một sự thí nghiệm về trách nhiệm và quyết tâm của người Mỹ ở châu Á. Chúng ta đã khai sinh ra nó. Nó là sản phẩm của chúng ta. Chúng ta không thể bỏ rơi nó. Nước Mỹ nhất định sẽ gánh lấy trách nhiệm. Uy danh của chúng ta nhất định sẽ nâng lên một bước mới”.

Trong số các tài nguyên và sản phẩm của Đông Dương có những thứ đối với nền công nghiệp hoặc thị trường nội địa của Mỹ, không phải là cần thiết trực tiếp, hoặc không cần tới mức gay gắt như vậy. Nhưng đối với lợi ích toàn cầu của Mỹ, thì đó là những thứ cần phải nắm lấy để chi phối thị trường thế giới (trường hợp gạo, cao su, than đá, dầu mỏ, vv.).

Cũng vì thế ngay từ trước khi xâm lược Miền Nam Việt Nam, Mỹ đã tìm đường nắm lấy nhiều sản phẩm quan trọng của Đông Dương. Lúc đó, Mỹ chưa mua nhiều thóc gạo, vì thóc gạo chưa quan trọng chiến lược như sau này. Nhưng cao su thì ngay từ trước đại chiến thế giới thứ II Mỹ đã mua khá nhiều. Từ năm 1930 đến 1939, Mỹ đã mua 39% tổng số cao su xuất khẩu của Đông Dương. Thời kỳ từ 1946 đến 1950 cao su chiếm 98% giá trị hàng hàng hóa của Đông Dương bán cho Mỹ.

Đối với Mỹ, “miếng mồi” Đông Dương không phải chỉ xuất hiện từ những năm trong và sau Thế chiến II mà đã có từ lâu. Chính sách bành trướng cổ điển của Mỹ mà trùm tài phiệt Rockefeller đã tổng kết trong một lá thư gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower: “Cho thương mại đi trước, cờ Mỹ sẽ đến sau”(1). Chính sách đó đã được Mỹ thực hiện ở Việt Nam.

Theo tạp chí “Những người bạn của cố đô Huế” bản tiếng Pháp (2), ngay từ năm 1819, tức là 36 năm sau khi Hoa Kỳ tuyên bố độc lập, những tàu chiến Mỹ đã tới Việt Nam, dò tìm đường sông Đồng Nai lên Sài Gòn. Sau đó hơn 10 năm (1832) một số thuyền buôn Mỹ lại xuất hiện ở vùng biển Trung Bộ, thả neo ở Vũng Lâm, Phú Yên.

Tiếp đó, năm 1836, tàu chiến Mỹ lại xuất hiện ở vịnh Sơn Trà (Đà Nẵng). Một tàu Mỹ có tên là Constitution đã xâm phạm lãnh thổ, dò thám, vẽ bản đồ, nghiên cứu và ghi chú địa hình, khí hậu, thủy thổ, truyền đạo và tạo điều kiện cho Pháp đánh phá Việt Nam năm 1845.

Như vậy, ngay từ khi mới lập quốc thì thế lực bành trướng toàn cầu của Mỹ đã sang bờ Thái Bình Dương. Nhưng thời điểm đó người Mỹ chưa thể chen chân được với các đế quốc tư bản thực dân đàn anh như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha.

Tuy nhiên, sau Thế chiến I, địa vị của Mỹ đã thay đổi. Lợi dụng, trục lợi nhờ chiến tranh nên Mỹ đã giàu lên và trở thành một cường quốc hùng mạnh, từng bước chen chân vào trường đấu tranh đòi quyền thuộc địa của mình trong số những quốc gia thực dân giàu mạnh.

Với “Chương trình 14 điểm” của Tổng thống Wilson, Mỹ đã gây được ảnh hưởng lớn trong việc xác lập lại “Trật tự thế giới mới” theo hướng có lợi nhất cho Mỹ, mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét là: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn” (3).

Mục tiêu chủ yếu lúc này ở khu vực châu Á của Mỹ là Trung Quốc, Trung Quốc trở thành vấn đề trung tâm trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở châu Á, vì những lợi ích của Mỹ đã giành được ở Trung Quốc đang bị Nhật đe dọa. Do vậy một trong những nội dung chủ yếu chính sách của Mỹ ở châu Á, là tìm mọi cách kiềm chế Nhật ở châu Á Thái Bình Dương.

Năm 1921, chính quyền New York (Mỹ) đã thành lập ban nghiên cứu thuộc địa Pháp – Mỹ, nhằm nghiên cứu khả năng đầu tư vốn vào các thuộc địa của Pháp. Nhân dịp này, viên quan toàn quyền Pháp Albert Sarraut, một chính khách thân Mỹ, đã ngỏ ý mời các đại công ty tư bản Mỹ đầu tư vào Đông Dương (4).

Đến hội nghị Washington (1922), Mỹ đã lên tiếng mặc cả thị trường đối với các cường quốc tư bản, đòi quyền lợi của mình ở Viễn Đông và bờ Thái Bình Dương. Sarraut, lúc này là quyền trưởng đoàn Pháp tham dự hội nghị, đã phát biểu ủng hộ một cách trực quan là: Nước Mỹ, một quốc gia có hai đại dương và có trách nhiệm với hai đại dương ấy.

Tại hội nghị này, thế lực bành trướng của Mỹ đã buộc các cường quốc tư bản còn lại thực hiện chính sách “Mở cửa” (Trung Quốc) cho Mỹ và củng cố được vị trí quân sự, chính trị của mình ở Viễn Đông. Cũng từ đó, Đông Dương được cộng đồng tài phiệt Mỹ quan tâm, ít ra là trong những câu lạc bộ trong giới kinh doanh tài phiệt.

Như vậy, có thể nói Mỹ đã chú ý đến Việt Nam từ giữa thế kỷ 19. Sau đó những nghiên cứu, tìm hiểu về Việt Nam và Đông Dương đã được bộ ngoại giao Mỹ quan tâm ít nhiều. Tuy nhiên trong thời điểm này, Việt Nam đang là thuộc địa của Pháp.

Với uy tín và ảnh hưởng Pháp trước và sau Thế chiến I đã không cho phép Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương. Song trong chiến lược bành trướng của mình, Mỹ đã bộc lộ ý đồ muốn có chân tại Việt Nam và Đông Dương ngày càng rõ, và đối với Mỹ, vấn đề Đông Dương luôn gắn liền với vấn đề Trung Quốc (5). Mỹ muốn biến Trung Quốc thành địa bàn đứng chân để thực hiện mưu đồ bành trướng và khống chế khu vực.

Thế Chiến II bùng nổ (1939) đã tạo ra một cơ hội tốt cho Mỹ can thiệp sâu rộng vào Việt Nam và Đông Dương. Nước Mỹ, với tính cách của một quốc gia quan tâm tới vấn đề Đông Dương kể từ thời Tổng thống Roosevelt trong những năm đầu của thập niên 20, đã đưa ra ý định thiết lập chế độ “quản thác quốc tế”. Rồi việc Nhật âm mưu xâm lược Đông Dương càng khiến Mỹ nhận thức rõ hơn vị trí và tầm quan trọng của khu vực này, cũng từ đó vấn đề Đông Dương đã trở thành một trong những chủ đề chính của các cuộc thảo luận giữa Mỹ và Nhật (6).

Như vậy, cho đến thời điểm này tuy Mỹ chưa tuyên bố thẳng, nhưng số phận Đông Dương đã có trong dự kiến sắp đặt của Mỹ. Quan điểm thực hiện chế độ “quản thác quốc tế” của Roosevelt đã thể hiện ý đồ sách lược của Mỹ là muốn gạt Pháp khỏi Đông Dương để có thể trực tiếp nắm xứ sở này, một khi hội đủ điều kiện.

Sau khi Roosevelt chết, cùng với nhiều nguyên nhân khác, chính sách của Mỹ đối với Đông Dương có sự thay đổi rõ rệt, Mỹ dần dần từ bỏ thái độ cứng rắn tranh giành đối lập với Pháp. Tuy chưa chính thức ủng hộ việc Pháp trở lại Đông Dương nhưng Pháp cũng được Mỹ tạo cơ hội bỏ ngỏ để trở lại xứ sở này (11).

Truman là người có tư tưởng thực dân, ông ta từng bước điều chỉnh lại chính sách của Roosevelt và bộc lộ rõ hơn khuynh hướng diều hâu đối với các dân tộc thuộc địa bị áp bức và thỏa hiệp với các đế quốc khác, trong đó có đế quốc Pháp, chuẩn bị cho chính sách chống Liên Xô, Trung Quốc và chặn đứng phong trào giải phóng thuộc địa và giải phóng dân tộc sau này.

Đối với Đông Dương, Truman đã bỏ hẳn ý đồ “quản thác quốc tế” thời Roosevelt và vận dụng phương châm “mềm nắn rắn buông”(14) trong quan hệ với các đồng minh lớn của mình. Việc chấp nhận giải pháp chia đôi Đông Dương ở vĩ tuyến 16 mà Mỹ đưa ra tại hội nghị Potsdam (tháng 7, 1945), không đả động đến quyền tự trị của Việt Nam (15) đã đánh dấu sự thỏa hiệp vụ lợi của Mỹ đối với Anh – Pháp.

Như vậy cho thấy, không đợi đến kết thúc chiến tranh Đông Dương, mà ngay trong Thế chiến II, Hoa Kỳ đã có mưu đồ gạt bỏ và thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền nam Việt Nam và kiểm soát Đông Dương, xây dựng một bàn đạp để phát triển thế lực ở Đông Nam Á. Về mặt kinh tế, Mỹ muốn mở rộng thêm thị trường tiêu thụ hàng hóa và vơ vét tài nguyên nông sản và khoáng sản ở Đông Dương.

Mỹ muốn thay cả Nhật lẫn Pháp để làm chủ khu vực này. Sang năm 1943, Mỹ muốn đặt Đông Dương dưới “chế độ ủy trị” của ba nước Mỹ, Anh và Trung Hoa Dân Quốc (Quốc Dân Đảng), thực chất là đặt Đông Dương trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ.

Sau khi Thế chiến II kết thúc, Đức hoàn toàn thất bại, Nhật đầu hàng không điều kiện. Pháp trở thành nước thắng trận nhưng suy yếu nghiêm trọng và toàn diện cả về chính trị, kinh tế và quân sự.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam thành công, khai sinh ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự kiện này không chỉ có ý nghĩa với dân tộc Việt Nam mà cả với phong trào cách mạng, phong trào kháng chiến giải phóng thuộc địa và giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á, đồng thời là một miếng đánh chiến lược vào chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.

Sự kiện lịch sử đó đã khiến Việt Nam trở thành đầu mối quân sự có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Và vì thế người Mỹ bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Việt Nam và Đông Dương.

Bằng nhiều chiến thuật và sách lược ngoại giao, Tổng thống Mỹ Truman đã hậu thuẫn cho quân đội chư hầu Trung Hoa Quốc Dân Đảng vào miền Bắc Việt Nam và hỗ trợ quân đội đồng minh Anh Quốc vào miền Nam Việt Nam, dưới danh nghĩa “giám sát sự đầu hàng của Nhật”.

Truman muốn vừa đảm bảo chắc chắn việc dọn sạch tàn quân Nhật, vừa muốn dùng quân Anh và quân Quốc Dân Đảng kiềm chế lực lượng Hồ Chí Minh ở Việt Nam, vừa thông qua hai đồng minh này khai thông mở đường cho Mỹ từng bước xâm nhập Đông Dương.

Hiệp nghị sơ bộ 1946 đã giúp Việt Nam đẩy được quân đội Quốc Dân Đảng trở về nước họ một cách khôn khéo. Pháp quay trở lại với cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, Mỹ từng bước thông đồng và giúp Pháp, đứng sau Pháp để tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Bên cạnh mưu đồ về chính trị, Mỹ không quên quyền lợi kinh tế của mình ở khu vực này. Từ năm 1945 đến 1950, quan hệ buôn bán giữa Mỹ và chế độ thuộc địa Đông Dương được đẩy mạnh hơn trước một bước.

Trong thời gian 5 năm đó, Mỹ mua 10,1% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu ở Đông Dương. Riêng cao su lên đến 105.000 tấn, chiếm 98% giá trị hàng hóa Mỹ mua của Đông Dương. Về phía Mỹ, hàng hóa nhập vào Đông Dương có giảm hơn so với trước Thế chiến II: “Bông vải chiếm; 9,3% số lượng vải nhập. Sản phẩm dầu hỏa chiếm 7,1% phương tiện giao thông đường biển, đường sông và đường hàng không: 3,1%.

Tính toàn bộ, hàng hóa Mỹ chiếm 9,6% tổng giá tự hàng hóa nhập cảng của Đông Dương trong 5 năm từ 1945 đến 1950, mặc dù trong thời gian này, Pháp đẩy mạnh nhập cảng hàng hóa của chính quốc để phục vụ yêu cầu của chiến tranh.

Sau khi Thế Chiến II kết thúc, theo chỉ thị của Bộ ngoại giao Mỹ, lãnh sứ quán Mỹ ở Đông Dương rất quan tâm đến việc điều tra thu thập những tài liệu kinh tế về Đông Dương, đặc biệt là về Việt Nam. Điều được Mỹ quan tâm nhiều hơn cả là nguồn khoáng sản ở Bắc Bộ. Công ty Florida PHAST có tham vọng rất muốn mở chi nhánh ở Lào Cai. Về thiếc, đế quốc Mỹ đặc biệt chú ý đến mỏ thiếc có hàm lượng cao và trữ lượng lớn ở Vân Nam (Trung Quốc) kéo dài đến vịnh Bắc Bộ (Việt Nam).

Ngoài lãnh sứ quán Mỹ còn có nhiều cơ quan và phái đoàn Mỹ cũng nghiên cứu tình hình kinh tế, giao thông, hầm mỏ, và thương mại của Việt Nam. Chính phủ Mỹ cũng bắt đầu đặt cơ sở giao dịch buôn bán tại Hà Nội để buôn bán với các thương gia người Việt được thuận lợi.

Sức mạnh kinh tế trở thành bàn đạp nuôi dưỡng ý đồ của Mỹ về mặt chính trị và hiện thực hóa bằng chính sách quân sự.

Tình hình quốc tế trong thời gian 1950-1954 có nhiều chuyển biến lớn ảnh hưởng tác động trực tiếp đến cuộc xâm lược và can thiệp của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Đông Dương.

Liên Xô sau khi giành được những thành tựu đáng kể trong kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1945-1950) đã chế tạo thành công vũ khí nguyên tử và bom khinh khí, phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mỹ. Và như thế, Mỹ đã hoàn toàn thất bại trong chiến lược “răn đe” Liên Xô.

Bên cạnh đó, những thắng lợi của Trung Quốc với sự ra đời của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949) đánh dấu thất bại nặng nề đối với chiến lược toàn cầu phản cách mạng, chống báng và ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, làm cho cán cân so sánh lực lượng trên trường quốc tế nghiêng về phe chống đế quốc và phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp trên thế giới.

Mặt khác, cuộc Chiến tranh Triều Tiên của Mỹ trong mục tiêu cứu nguy Hàn Quốc ở Nam Triều Tiên và “Bắc tiến” xâm lược Bắc Triều Tiên của đế quốc Mỹ dưới ngọn cờ Liên Hiệp Quốc cũng không thôn tính được Bắc Triều Tiên do bị quân đội Trung Quốc đẩy lui ra khỏi thủ đô Bình Nhưỡng và bị tổng tư lệnh Bành Đức Hoài đánh bật ra khỏi lãnh thổ Bắc Triều Tiên, đẩy Mỹ trở về vĩ tuyến 38 và lãnh thổ Nam Triều Tiên.

Tại Đông Dương, sau thất bại của chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1947, quân đội Pháp tiếp tục bị thất bại trong chiến dịch Việt Bắc Thu Đông 1950 trên phòng tuyến biên giới Cao Bằng – Lạng Sơn, đẩy thực dân Pháp lún sâu vào sa lầy và khủng hoảng toàn diện.

Để tiếp tục cuộc Chiến tranh Đông Dương, không còn con đường nào khác Pháp buộc phải chấp nhận sự giúp đỡ viện trợ của Mỹ. Lợi ích kinh tế chính trị quân sự của Mỹ ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng đến lúc này đã bộc lộ rất rõ.

Ẩn nấp sau lợi ích về sự chia phần với Pháp về kinh tế là một mưu đồ chính trị rộng lớn hơn. Bước sang giai đoạn này (1950 -1954), mưu biến khu vực thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ càng được bộc lộ rõ nét qua viện trợ của Mỹ cho Pháp.

Ngày 08/5/1950, Tổng thống Mỹ Truman quyết định viện trợ cho Pháp trong chiến tranh xâm lược Đông Dương. Theo Pentagon Papers (Hồ sơ Ngũ Giác Đài), tháng 12/1950, Mỹ chính thức ký với Pháp hiệp định viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương.

Qua mỗi năm sau đó, viện trợ Mỹ ngày một tăng lên nhanh chóng, dần trở thành nguồn cung cấp chính yếu cho cuộc chiến tranh tái chiếm Đông Dương. Theo tính toán của Pháp, viện trợ Mỹ đã chiếm gần 80% chi phí chiến tranh của Pháp. Trong tổng số 1,7 tỷ USD viện trợ Mỹ đó tuyệt đại bộ phận là vũ khí khí tài chiến tranh.

Tháng 9, 1952, Mỹ ký với ngụy quyền Bảo Đại “hiệp ước hợp tác kinh tế Việt-Mỹ”. Từ năm 1950 đến 1954, Mỹ đã viện trợ cho chính quyền Bảo Đại 23 triệu USD bằng hàng hóa và khoảng 36 triệu USD bằng tiền mặt, khoảng 15 triệu USD vũ khí. Tổng số các loại viện trợ này khoảng 75 triệu USD. Với khoản viện trợ khổng lồ theo thời giá khi đó, Mỹ tin tưởng rằng tất cả sẽ nằm trong vòng kiểm soát của họ.

Cũng trong khoảng thời gian này, Mỹ bắt đầu vơ vét nguyên liệu ở Việt Nam và Đông Dương. Có thể thấy rõ điều đó qua số liệu cao su xuất cảng sang Mỹ hàng năm: 1951 (13.398 tấn), 1952 (20.08 tấn), 1953 (34.98 tấn), 1954 (34.28 tấn).

Ngoài ra, Mỹ còn áp lực Pháp cho các tập đoàn tư bản Mỹ vào đầu tư ở Đông Dương. Tháng 6, 1950, ngoại trưởng Pháp tại hội nghị Washington đã ký một hiệp ước để Mỹ đầu tư vào khối Liên hiệp Pháp. Hiệp ước này mở đường cho tư bản tài phiệt Mỹ rộng đường xâm nhập Việt Nam và Đông Dương: Công ty Hàng không Liên Mỹ Đông Dương; công ty Hàng không Vận tải (Givilais transport) chiếm 10% cổ phần ngân hàng Đông Dương; công ty Marquet nắm mỏ chì, mỏ thiếc, công ty Morgan nắm điện thoại vv..

Người Pháp thừa hiểu rằng viện trợ Mỹ thấm đến đâu thì “bàn tay lông lá” của Mỹ cũng nhúng vào tới đó, quyền lợi của Pháp cũng bị đe dọa tới đó. Nhưng tình thế khó khăn buộc Pháp phải miễn cưỡng chấp nhận.

Quân đội Việt Nam thì ngày càng lớn mạnh. Chiến tranh kéo dài và ngày càng tổn thất lớn. Nền tài chính Pháp kiệt quệ. Mỹ lúc này là chỗ dựa duy nhất.

Tình cảnh của Pháp lúc này rất khốn quẫn. Trước mặt, quân Việt Nam càng đánh càng mạnh, càng dìm Pháp sa lầy sâu hơn trong những thất bại ngày càng lớn.

Tướng Henri Navarre, tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương thời kỳ 1953 -1954 trong tác phẩm “Đông Dương hấp hối” đã viết: “Điều nguy khốn nghiêm trọng nhất của viện trợ Mỹ là, về mặt chính trị, nó làm cho Mỹ nhúng tay ngày càng sâu vào các công việc của chúng ta. Nó làm cho ảnh hưởng của Mỹ thay thế dần ảnh hưởng của Pháp đối với các quốc gia liên kết. Do nhận viện trợ Mỹ, chúng ta đã làm vào tình huống đầy mâu thuẫn. Đó là tấn bi kịch.”

Có thể nói, trước Thế chiến II, thực dân Mỹ ít dòm ngó đến Đông Dương. Nhưng sau khi chiến tranh thế giới bùng nổ, đặc biệt việc Nhật xâm lược và đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau đó xâm lược một loạt các quốc gia Đông Nam Á, thì chính sách của Mỹ đối với Đông Dương, trong đó có Việt Nam, bắt đầu thay đổi.

Tháng 9, 1940, Nhật đột nhập vào Lạng Sơn và sau đó xâm nhập toàn Đông Dương. Sau này, giới sử học chủ lưu ở Mỹ vẫn coi đó là sự kiện đầu tiên thôi thúc sự quan tâm của Mỹ đối với Đông Dương.

Mùa xuân năm 1941, Cục Hải quân Mỹ gửi một báo cáo đặc biệt về Đông Dương lên Tổng thống Mỹ Roosevelt. Đây có lẽ là tài liệu đầu tiên của Mỹ phản ánh tương đối toàn diện tình hình các mặt về tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương đối với Mỹ. Từ đó, chính sách của Mỹ đối với khu vực này có nhiều thay đổi. Nhà sử học Mỹ Edward Drachman nhận xét: “Từ cuối năm 1940, Mỹ bắt đầu nhận thấy ý nghĩa chiến lược quan trọng của Việt Nam. Và đến đầu năm 1941, trên thực tế, Mỹ đã xem Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược lớn đến mức là một cuộc xung đột về quyền lợi với Nhật ở đó đã trở thành nguyên nhân chủ yếu của cuộc chiến tranh giữa hai nước.”

Từ tháng 3, 1941, Đông Dương trở thành chủ đề chính trong nhiều cuộc nói chuyện giữa Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Cordell Hull và đại sứ Nhật Bản tại Mỹ Nomura. Việc quân đội Nhật vào Đông Dương và sự thỏa hiệp của Pháp đã làm cho Tổng thống Mỹ Roosevelt lo ngại vì điều đó đe dọa trực tiếp đến lợi ích Mỹ và tạo cho Nhật Bản một căn cứ để hoạt động rộng khắp Đông Nam Á.

Ngày 24/7/1941, Roosevelt chỉ thị cho Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ lúc đó là Sumner Welles thể hiện quan điểm của Mỹ với đại sứ Nhật Nomura: “Phải làm cho rõ sự thực là Nhật chiếm đóng Đông Dương có nghĩa là một bước tiến quan trọng để kiểm soát vùng biển phía Nam, trong đó có luồng thương mại quan trọng nhất của Mỹ về các sản phẩm cao su, thiếc, và các sản phẩm khác”.

Sau khi chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc Thế chiến II) bắt đầu, là một chính khách mưu lược và thực dụng, Roosevelt sớm hiểu rằng chiến tranh thế giới sẽ làm bùng phát lên một cuộc nổi dậy quy mô toàn thế giới phản kháng thực dân phương Tây, trong đó có Đông Dương. Các nước đế quốc nếu muốn duy trì quyền lợi của mình thì không thể áp đặt một chế độ thực dân công khai theo kiểu cổ điển như thời kỳ trước chiến tranh được mà phải có sự thay đổi từ cũ sang mới, điều chỉnh “linh động” cho phù hợp với tình hình.

Chế độ quản lý của Roosevelt trên thực tế chính là sự áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới (thực dân trá hình, thực dân linh hoạt) của Mỹ vào Việt Nam và Đông Dương.

Tổng thống mới Truman, với chính sách diều hâu và trong tham vọng được chia phần với Pháp, đã từng bước ủng hộ Pháp quay lại chiếm đóng Đông Dương. Trong chuyến thăm nước Mỹ từ ngày 22 đến 25/8/1945, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle đã nhận được sự xúi giục và hứa hẹn của Truman: “Về Đông Dương, tôi xác nhận là Chính phủ Mỹ sẽ không làm gì để cản trở sự trở lại của nước Pháp”.

Ngày 29/8/1945, bà Tống Mỹ Linh, vợ thống chế Trung Hoa Dân Quốc, ủy viên trưởng Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch thăm Mỹ, khi gặp Truman đã hỏi về chính sách của Mỹ đối với Đông Dương sau khi nhắc lại ý định của Roosevelt về vấn đề này và nhận được câu trả lời dứt khoát của Tổng thống Mỹ: “Không có vấn đề quản thác quốc tế cho Đông Dương nữa”. Mỹ đã mượn Tống Mỹ Linh để chuyển lời và tín hiệu “đèn xanh” đến cho Pháp: Mỹ đã hoàn toàn ủng hộ 100% đối với âm mưu của Pháp chiếm lại Đông Dương.

Với sự thành công của Cách mạng tháng Tám giành chính quyền từ tay Nhật trên toàn quốc Việt Nam năm 1945, sự ra đời của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã làm đảo lộn mọi tính toán, sắp đặt của các thế lực đế quốc, trong cuộc đua tranh nhau Đông Dương.

Thực tế đó đã buộc các thế lực đế quốc phải nhanh chóng thỏa hiệp với nhau để có thể đảo ngược tình thế trước mắt, cùng thực hiện mưu toan bóp chết một quốc gia cộng hòa non trẻ vừa mới ra đời.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiểu và thấy rất rõ bản chất diều hâu, hiếu chiến, và những ý đồ của Mỹ và các thế lực đế quốc khác đối với Đông Dương. Ngay sau cách mạng tháng Tám năm 1945 ta đã khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Mỹ – Tưởng và Anh – Pháp, nhằm ngăn chặn âm mưu quay lại xâm lược Đông Dương của Pháp, vô hiệu hóa những toan tính mới của Mỹ, bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được.

Để tránh và hạn chế nguy cơ chiến tranh do Pháp gây ra, thấy rõ vai trò, ảnh hưởng của Mỹ trên thế giới, Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần liên hệ với các cơ quan đại diện của Mỹ, kêu gọi Mỹ sử dụng ảnh hưởng của họ đối với Pháp. Nhưng từ phía Mỹ đã không đáp ứng. Do thấy rõ được thái độ hai mặt của Mỹ, nên Việt Nam vẫn luôn chuẩn bị những kế sách để đối phó. Cho đến thời điểm đó, phía Mỹ vẫn không có một sự công nhận chính thức nào đối với nước Việt Nam mới, mà trái lại Mỹ đã tích cực hoạt động theo hướng tạo ra một chính quyền bù nhìn để thay Mỹ chống Việt Nam.

Cuộc Thế chiến II kết thúc đã dẫn đến những biến chuyển lớn trong tương quan so sánh lực lượng trên thế giới. Mỹ trở thành cường quốc số một thế giới, đồng thời sự lớn mạnh của Liên Xô và sự ra đời của một loạt các quốc gia XHCN, sự tăng cường ảnh hưởng của các đảng Cộng sản trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc, Đông Dương, Triều Tiên…. đã làm Mỹ lo ngại.

Đến năm 1947, theo kế hoạch Marshall, Mỹ viện trợ cho Pháp 3 tỷ USD với ý muốn giúp Pháp giải quyết nhanh cuộc Chiến tranh Đông Dương, vì sợ tác động dây chuyền của Việt Nam sẽ thúc đẩy các phong trào đòi độc lập ở cả khu vực Đông Nam Á không có lợi cho Mỹ và phương Tây.

Cuối những năm 1940, Mỹ can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp. Từ cuối năm 1949, Mỹ chính thức cam kết can thiệp vào cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương bằng một loạt các bước đi cụ thể. Lợi dụng sự suy yếu của Pháp, Mỹ đi đến chỗ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam và Đông Dương (1950-1954), rồi tiến dần đến gạt bỏ và thay thế Pháp ở miền Nam Việt Nam (sau 1954).

Từ đó, Mỹ đã từng bước lao vào “một cuộc chiến tranh làm mất lòng người và gây chia rẽ nhất trong một thế kỷ của lịch sử Mỹ” (19).

Ngày 20/12/1960, Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Tây Ninh tuyên bố thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội đã cử ra Ủy ban Trung ương và thông qua Tuyên ngôn, chương trình hành động 10 điểm, với nội dung cơ bản là: Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ; thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ; thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.

Để nắm độc quyền đầu tư, ngay từ năm 1961 Mỹ đã yêu cầu Ngô Đình Diệm ký bản cam kết ưu đãi đầu tư của Mỹ, gọi là “hiệp ước thân hữu và liên lạc kinh tế Việt-Mỹ”. Trong hiệp ước này, Diệm bảo đảm cho đầu tư của Mỹ được thuận lợi trong mọi ngành kinh tế, về mọi mặt trong việc mua đất đai, nguyên liệu, sử dụng các phương tiện công ích, thuê nhân công, chuyển lợi nhuận hàng năm về nước Mỹ, hiệp đồng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, không được phép quốc hữu hóa trong một thời gian dài tùy theo từng ngành, thời gian đảm bảo cao nhất là 99 năm.

Như vậy, tuy Mỹ chưa thực hiện, hoặc mới thực hiện đầu tư nhỏ giọt, song đó chính là một trong những mục tiêu mà Mỹ đã nhắm vào và đã chuẩn bị từ lâu.

Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa. Tham vọng này không chỉ nhằm vào viễn cảnh. Nó đã được thực hiện từ lâu. Ngay từ trước Thế chiến II, tỷ lệ hàng hóa Mỹ trong tổng ngạch nhập khẩu của Đông Dương đã đạt tới mức cao: Trong thời kỳ 1930-1939: bông 27%, sản phẩm dầu hỏa 19,1%, máy móc 17,5%, ô tô và phụ tùng 13,4%. Trong thời kỳ 1946-1950; bông, 9,3%, sản phẩm dầu hỏa 7,7%, kim khí 4,9%, máy móc 19,3%, ô tô và phụ tùng 10%, sợi và hàng dệt 13,6%, thuốc lá 7,1%.

Những thành công của kế hoạch X, nghi binh Khe Sanh, và cuộc tổng công kích chiến lược và tổng nổi dậy ở “thủ phủ” Sài Gòn và vùng tạm chiếm miền Nam năm 1968, trong đó có Tòa đại sứ Mỹ (lãnh thổ nước Mỹ theo pháp lý), đã gây bất ngờ và tổn hại lớn cho Mỹ – Sài Gòn, gây kinh ngạc cho dư luận trong và ngoài nước Mỹ, truyền thông chủ lưu Mỹ và quốc tế, đã trực tiếp đưa người Mỹ lên bàn đàm phán ở hội nghị Paris, Pháp.

Ngày 5/8/1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam (lúc này thay thế Mặt trận Giải phóng) ra Tuyên bố 10 điểm, với nội dung chính là 10 giải pháp chính cho vấn đề Việt Nam:

1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh, dân tộc, dân chủ.
2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi, tiến bộ.
3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, cải thiện dân sinh.
4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, làm cho người cày có ruộng.
5. Xây dựng nền văn hoá, giáo dục dân tộc dân chủ.
6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.
7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.
8. Thực hiện chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập.
9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.
10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hoà bình thế giới.

Cái logic bi hài trong cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Mỹ là: Vì tham vọng của Mỹ bị ngăn chặn, cho nên sức mạnh và uy danh của Mỹ bị đặt trước một sự thách thức.

Như vậy, khi việc khai thác của cải càng gặp khó khăn, thì lại nảy sinh một động cơ khác, một nỗ lực phải giữ lấy “uy danh” nước lớn của Mỹ cho bằng được, không phải chỉ có ở Việt Nam mà còn thông qua Việt Nam để giữ lấy uy danh của Mỹ trên trường quốc tế. Động cơ này bản thân nó đã rất lớn.

Trong quá trình xâm lược, trong quá trình thất bại liên tục, động cơ đó càng ngày lớn hơn lên và càng có sức lôi kéo mạnh mẽ đối với ý chí của Mỹ. Sức lôi kéo đó dần dần trở nên mạnh hơn sức lôi kéo của những vựa lúa, những rừng cao su, những bể dầu ở Nam Bộ.

Nếu chỉ vì những món lợi trực tiếp, thì những khó khăn và thất bại có thể làm chính giới Mỹ phải tính toán và dừng lại cuộc phiêu lưu quân sự ở Việt Nam. Nhưng nếu là để cứu vãn uy danh của một cường quốc bá chủ thế giới, thì càng thất bại, cái động cơ đó càng mạnh hơn, càng lôi kéo Mỹ sa lầy sâu vào “bãi lầy Việt Nam”, “vũng bùn Việt Nam” lâu hơn.

Chỉ đến khi nào dùng hết sức mạnh có thể dùng đến, thi hành tất cả những thủ đoạn có thể thi hành và không còn cách nào cứu vãn nổi thất bại quân sự nữa, thì Mỹ mới đành rút quân đội chủ lực về nước (để lại 20 ngàn sĩ quan cố vấn Mỹ với danh xưng mới là “tùy viên quân sự”).

Chiến tranh Việt Nam

Như vậy, toàn cảnh thực tế lịch sử ở trên đã cho thấy rõ, ngay từ giữa thế kỷ 19 Mỹ đã chú ý đến Việt Nam. Sau đó, với vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng ở khu vực Đông Nam Á, Việt Nam và Đông Dương đã dần trở thành đối tượng tranh chấp của nhiều thế lực bên ngoài.

Thời gian trước Thế chiến II, Mỹ chưa có điều kiện chú ý nhiều đến tình hình Đông Dương. Nhưng bước vào chiến tranh, chính sách của Mỹ đối với khu vực này bắt đầu có sự thay đổi. Với việc Nhật dòm ngó và xâm lược Đông Dương, đặc biệt khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Mỹ đã coi Đông Dương là một địa bàn quan trọng để ngăn chặn và tranh giành với Nhật.

Cũng từ đó, chính phủ Mỹ, chính thức từ thời Tổng thống Roosevelt trong những năm đầu của thập kỷ 40 bắt đầu chú ý ngày càng nhiều đến Việt Nam và Đông Dương. Chính Roosevelt đã đưa ý định thiết lập chế độ “quản thác quốc tế” hứa hẹn, hoãn binh câu giờ bằng miếng bánh vẽ “độc lập” nhằm bám víu thuộc địa cũ, níu kéo thời gian để thiết kế sắp đặt và dọn đường cho chủ nghĩa thực dân trá hình của Mỹ, tạo điều kiện để Mỹ có thể nắm được càng nhiều cựu thuộc địa càng tốt, trong đó có Đông Dương.

Mặc dù chủ trương đặt Đông Dương dưới một chế độ quản thác quốc tế, nhưng chính phủ Mỹ chưa bao giờ quan tâm tới việc ủng hộ nhân dân Đông Dương giành độc lập, tự chủ. Thực chất Mỹ chỉ muốn qua hình thức “quản thác quốc tế” để gạt bỏ sức mạnh quyền lực của Pháp ở Đông Dương, từ đó tạo điều kiện gây ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực này khi chưa có điều kiện can thiệp trực tiếp.

Thực tế lịch sử đã cho thấy, mãi tới khi Việt Nam đã có những hoạt động hỗ trợ cụ thể cho phe Đồng minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đặt vấn đề hợp tác đánh Nhật, thì phía Mỹ cũng chỉ có những hành động đáp lại rất hạn chế. Cho đến trước khi chết, Tổng thống Roosevelt vẫn không có một quyết định nào về vấn đề quản thác quốc tế đối với Đông Dương.

Tuy nhiên xét tình hình thực tiễn lúc đó, chính sách dân túy và cơ hội chính trị này của Roosevelt cũng ảnh hưởng tiêu cực đến Pháp, có lợi cho cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam, mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt được và tranh thủ lợi thế đó, nhằm tập trung vào kẻ thù chính của cách mạng lúc đó là phát xít Nhật và thực dân Pháp.

Thế chiến II kết thúc, cách mạng Việt Nam thành công, Tổng thống mới của Mỹ là Truman và các nhà chiến lược Mỹ đã có sự thay đổi sách lược đối với Việt Nam và Đông Dương. Tuy chưa có điều kiện để can dự nhiều đến Đông Dương, nhưng Mỹ đã dần ủng hộ Pháp trở lại xâm lược Đông Dương.

Từ đó bắt đầu quá trình can thiệp của Mỹ vào cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp và tiến dần tới chỗ thay thế Pháp, độc chiếm miền Nam Việt Nam, biến nơi đây thành thuộc địa trá hình và căn cứ quân sự của Mỹ.

Cũng từ đó Mỹ bắt đầu một quá trình “lao theo vết xe đổ của Pháp”, và rồi cũng không tránh khỏi thất bại như Pháp khi những người lính thủy đánh bộ và tùy viên quân sự cuối cùng của Mỹ lên trực thăng rời khỏi lãnh thổ Việt Nam sáng ngày 30/4/1975 trong chiến dịch Frequent Wind, chiến dịch quân sự cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Phạm Xanh: Đông Dương “Lọt vào mắt xanh” của Đế quốc Mỹ từ bao giờ, tạp chí Lịch sử quân sự, số tháng 1-1988, tr.26.
(2) Tạp chí Những người bạn của cố đô Huế số 3-1937 (bản tiếng Pháp)
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 1, XB lần thứ 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà NộI, 1995, tr.416.
(4) Tạp chí Lịch sử quân sự, 1-1988 sđd, tr.27.
(5) Lê Kim Hải: Hồ Chí Minh với quan hệ ngoại giao Việt – Pháp thời kỳ 1945- 1946, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr.8.
(6) Peter A. Paul: Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon. NXB Thông tin lý luận, Hà Nội, 1988, tr. 13-14.
(7) Drachman: Chính sách của Mỹ đối với Việt Nam 1940-1945. Viện Thông tin khoa học xã hội lược thuật.
(8) Viện Mác – Lênin: Tình đoàn kết chiến đấu vô sản Việt Pháp, NXB Thông tin lý luận Hà Nội, 1986, tr.39.
(9) Cordel Huld: Memoirs (New York, Macminllan, 1948)
(10)Trần Hữu Đính, Lên Trung Dũng: Quan hệ Việt Mỹ trong cách mạng tháng Tám, NXB Khoa học xã hội, Hà NộI, 1997.
(11)Drachman… Sđd
(12)Xem Foreign Relation of the United States. Volume V.
(13)Peter A. Paul… Sđd
(14)Trần Trọng Trung: Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống, Tập 1, NXB Văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1986, tr. 57.
(15)Jaeyes Dacot: NgườI Mỹ ở Việt Nam, tạp chí “Historia” (Pháp) Số 2-1990, tài liệu lưu trữ ở Viện Lịch sử quân sự.
(16)Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975. Tập 1. NXB Chính trị quốc gia, tr 85.
(17)Lịch sử diễn biến tình hình địch và ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1945-1975), Viện Khoa học quân sự, biên soạn, 1977, tr4.
(18)Jaeayes Dacot: … Sđd
(19)Peter A. Paul: … Sđd, tr7.
(20) Hai Mươi Mốt Năm Viện Trợ Mỹ Ở Việt Nam. Đặng Phong.
(21) Henry Lauque, Activités économiqués americanes. Cahiers Internationaux, No-5-1942.
(22) Pentagon Papers (Hồ sơ Ngũ Giác Đài). Daniel Ellsberg. The New York Times. 1971.
(23) Edward Drachman. United States Policy Towards Vietnam 1940-1945. New Jersey, Associated University Press 1970. tr62.
(24) Tuyên ngôn, chương trình hành động 10 điểm. Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam. Tây Ninh. Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. 20/12/1960.
(25) Tuyên bố 10 điểm giải pháp. Hội nghị Paris. Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền nam Việt Nam. 5/8/1969.
(26) Tổ chức, hoạt động của MTDTGPMNVN và CPCMLTMNVN qua tài liệu lưu trữ (1960 – 1975). Vũ Văn Tâm, Phó Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia II.

Theo TS. Nguyễn Trọng Hậu (Sự kiện & Nhân chứng, QĐND), PGS, TS. Hà Minh Hồng (Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia TP. HCM, Hội Khoa học Lịch sử TP. HCM), và PGS, TS. Phạm Thu Nga (Blog Khoa quân sử)

Chiến tranh Triều Tiên: Cuộc đại chiến bị lãng quên giữa hai cường quốc Mỹ – Trung

Chiến tranh Triều Tiên, vì lý do chính trị, trở thành cuộc chiến bị lãng quên trong giới truyền thông chủ lưu ở Hoa Kỳ và truyền thông chính thống ở Trung Quốc.

Tại Trung Quốc, chế độ chính trị muốn “quên đi” cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều (cách truyền thông Trung Quốc gọi Chiến tranh Triều Tiên) này vì đây là công lớn của nguyên soái Tổng tư lệnh Bành Đức Hoài. Năm 1959, Trung Quốc đã ngưng việc tuyên truyền chiến thắng vang dội trong chiến tranh kháng Mỹ viện Triều khi mâu thuẫn quyền lực và bất đồng quan điểm giữa đại nguyên soái Bành Đức Hoài với Mao Trạch Đông và phần lớn Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Bành Đức Hoài phê phán Mao Trạch Đông về chính sách Đại Nhảy Vọt và đấu tranh để bảo vệ quan hệ hữu nghị Trung – Xô. Do đó, kể từ sau Hội nghị Lư Sơn năm 1959, chiến thắng quân sự của Trung Quốc, đi kèm với chiến công của tổng tư lệnh Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều Tiên đã trở thành một đề tài đặc biệt nhạy cảm và có tính chất “cấm kỵ” trong giới truyền thông nước này.

Tại Hoa Kỳ, một bộ phận lớn trong giới truyền thông chủ lưu đã gọi tên cuộc chiến bằng danh từ The Forgotten War (Cuộc chiến tranh bị lãng quên). Chiến tranh Việt Nam cũng là cuộc chiến tranh mà người Mỹ muốn quên đi do sự thất bại triệt để của họ về chiến lược và chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên, “hội chứng Việt Nam” bùng phát từ 20 năm chiến tranh thì người dân và cựu binh Mỹ khó lòng quên được.

Nhưng người Mỹ đã thành công “quên lãng” cuộc chiến tranh 3 năm ở Triều Tiên. Vì sao họ muốn quên lãng thì chúng ta cùng tìm hiểu qua bài viết này.

Chiến tranh Việt Nam

Mỹ đã xâm lược Bắc Triều Tiên như thế nào?

Năm 1950, đại quân CHDCND Triều Tiên do nguyên soái Kim Il-sung đích thân thống lĩnh đã từ Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38 tấn công tổng lực xuống Nam Triều Tiên.

Theo ý kiến tham mưu từ bên Trung Quốc, Kim sử dụng chiến thuật tốc chiến tốc quyết (đánh nhanh giải quyết nhanh, như ban đầu ở ĐBP của VN). Họ đánh thắng như chẻ tre vì quân đội Hàn Quốc (thành lập từ tàn quân Quân Giải phóng Triều Tiên, Quân Cách mạng Triều Tiên phái hữu, Đại Hàn quang phục quân thời đánh Nhật và tân binh Syngman Rhee mới chiêu mộ), bộ phận tinh binh này tuy rất thiện chiến nhưng không có xe tăng hay vũ khí chống tăng đáng kể.

Quân đội Hàn Quốc với khoảng 600.000 quân, đông gấp đôi đối thủ, nhưng chính vì sự đông đảo lai tạp, pha trộn giữa lính cũ (chống Nhật) và lính mới, đã phản tác dụng và khiến quân đội Hàn Quốc bị thua nhanh. Họ nhanh chóng đại bại, nhiều thành phố đồng loạt đầu hàng, dẫm đạp lên nhau chạy trong nhiều trận đánh. Quân Hàn bị bất lực và hoảng loạn trước loạt xe tăng hiện đại của Triều Tiên rầm rộ tốc chiến tốc thắng trên đường phố đô thị Hàn Quốc như chốn không người.

Quân đội thiện chiến hơn của Triều Tiên với vũ khí tối tân của Liên Xô đánh nhanh thắng thanh, tiến thẳng về thủ đô Seoul truy đuổi Syngman Rhee. Syngman Rhee bị thua trận, lâm nguy đành khẩn cấp cầu viện Mỹ.

Hoa Kỳ nhân danh Liên Hiệp Quốc, cử danh tướng Douglas McArthur – người hùng trong Thế chiến II – làm tổng tư lệnh, các tướng Matthew Ridgway, Mark Wayne Clark phụ tá, sang Hàn Quốc cứu nguy chư hầu.

Ban đầu, nhờ đang trên thế thắng sĩ khí đang cao nên quân Triều Tiên giữ được ưu thế, vây chặt quân Mỹ và tàn quân Hàn Quốc ở Pusan.

Nhằm gỡ bỏ thế nguy, McArthur dùng mưu kỳ binh đột kích vào Inchon, cắt đôi quân đội Triều Tiên, khiến họ đầu đuôi không thể cứu ứng nhau.

Nhờ trận đại thắng này, Mỹ và liên quân từng bước nhanh chóng đánh bại gần 300.000 quân Triều Tiên. Nhân cơ hội quân Triều Tiên thua chạy, vỡ trận, hỗn loạn và “binh bại như núi đổ”, gần 300.000 liên quân 16 nước được Mỹ cầm đầu liền vượt vĩ tuyến 38 xâm lược Bắc Triều Tiên, rầm rộ tiến về thủ đô Bình Nhưỡng truy kích nhà họ Kim.

Nhà Kim và những lãnh đạo Đảng cấp cao của CHDCND Triều Tiên phải đào vong sang khu vực biên giới giáp ranh Mãn Châu, Trung Quốc, cầu viện khẩn cấp.

Trước tình hình quân Mỹ đã đến sát sườn và McArthur liên tục hạ lệnh cho ném bom và pháo kích sang bên kia sông Áp Lục để phá hủy các căn cứ quân sự biên phòng của Trung Quốc, Mao Trạch Đông phái danh tướng Bành Đức Hoài – vị nguyên soái uy tín – làm tổng tư lệnh và chính ủy, hai tướng Đặng Hoa, Trần Canh làm phụ tá, đem 270 nghìn quân vượt sông Áp Lục sang Triều Tiên cứu viện. Sau 3 tháng chiến sự, giai đoạn 2 và cũng là giai đoạn chính của chiến tranh Triều Tiên mà Trung Quốc gọi là cuộc Chiến tranh kháng Mỹ viện Triều chính thức bắt đầu.

Ngoài hai cánh tay đắc lực là Trần Canh và Đặng Hoa, Bành Đức Hoài còn được sự phụ tá từ những trợ thủ đắc lực từng có nhiều quân công trong chiến tranh Trung – Nhật và nội chiến Quốc – Cộng: Dương Đắc Chí, Dương Dũng, Lý Chí Dân, Vương Bình.

Trung Quốc đã đưa một lực lượng hùng hậu từ binh lính đến tướng soái đến Bắc Triều Tiên để cứu nhà Kim đang trên bờ vực sụp đổ.

Trước những thông tin tình báo sai lệch của CIA, Washington và McArthur luôn chủ quan trong suốt thời gian này. Họ không tin Trung Quốc dám tiến hành chiến tranh cứu viện, vì không tin Trung Quốc có thể tập trung được một số quân đủ lớn để tiến hành chiến tranh vào trong lãnh thổ Triều Tiên.

Người Mỹ tin rằng bất kỳ động thái nào của Trung Quốc đều nằm trong vòng kiểm soát, nắm bắt của họ. Trước cuộc đụng độ lịch sử với Bành Đức Hoài, McArthur còn không tin sẽ có chiến tranh với Trung Quốc, nói: “Nếu Trung Quốc dám xuống đây thì sẽ có một cuộc thảm sát lớn nhất đối với chúng.”

Nhưng Bành Đức Hoài đã gây bất ngờ lớn, chỉ trong vòng một thời gian rất hạn chế, eo hẹp mà ông ta tập kết được gần 300.000 quân, một quân số lớn mà ngày nay với khoa học kỹ thuật tân tiến, phương tiện chuyên chở tốc độ cao cũng vẫn khó thực hiện.

Dưới danh nghĩa quân tình nguyện (Chí nguyện quân), Trung Quốc đem ~300.000 quân vượt sông Áp Lục sang Triều Tiên quyết chiến với Mỹ. Điều bất ngờ này đã làm Mỹ và liên quân bị choáng váng trong thời gian đầu. Cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và McArthur đều không ngờ Trung Quốc có thể tập kết quân đội và xuất quân thần tốc đến vậy.

Viện binh Trung Quốc tăng dần theo thời gian và cuộc chiến đã diễn ra vô cùng kịch tính và quyết liệt suốt 3 năm sau đó.

Với gần 1 triệu rưỡi quân, Bành Đức Hoài phối hợp chiến thuật vây đánh, bố ráp, đánh hậu tập, siết chặt vòng vây với chiến thuật biển người cổ điển. Trung Quốc giúp Triều Tiên giải phóng được thủ đô Bình Nhưỡng từ tay Mỹ và đánh lui quân Mỹ sang phía bên kia biên giới tại vĩ tuyến 38. Người Mỹ hoàn toàn bị bỡ ngỡ bởi cách đánh của Bành Đức Hoài, các chiến thuật chia quân, đặt phục binh đúng chỗ, các mưu kế dụ địch mà McArthur từng thành công trước đây đều không có tác dụng gì với Bành Đức Hoài, một chuyên gia quân sự lão luyện.

Bị thua, McArthur dọa sẽ không loại trừ khả năng dội bom nguyên tử xuống Trung Quốc và Bắc Triều Tiên như đã ném xuống 2 thành phố Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

Mỹ sai Matthew Ridgway sang thay thế bại tướng McArthur với lý do là vì ông này “bất tuân thượng lệnh của Tổng thống” để vãn hồi danh dự.

McArthur thua Bành Đức Hoài là vì ông ta quá nghiêng về hướng sử dụng mưu kế tiểu xảo để thủ thắng, nhưng Bành Đức Hoài là vị tướng cẩn thận “trăm trận không thua” đã không cho ông ta bất kỳ cơ hội nào. Thay vào đó, Bành lợi dụng ưu thế quân đông mà vây ép dần quân Mỹ đẩy ngược họ sang phía bên kia biên giới Triều – Hàn. Trong suốt cuộc chiến tranh Triều Tiên, Bành đã không đi một nước cờ sai sót lớn nào về chiến lược quân sự, theo chủ trương “chậm mà chắc”, rút kinh nghiệm từ thất bại của Kim Nhật Thành trước đó.

Ngoài ra Trung Quốc cũng có những chiến thuật tác chiến đầy mưu mẹo có tính chất du kích mà quân Mỹ chưa từng kinh qua bao giờ và có những sự bối rối nhất định.

Bành Đức Hoài mặc dù ở sân khách phải bỏ đi sở trường chiến tranh du kích, phải theo sở đoản trận địa chiến và chiến tranh quy ước kiểu Mỹ, nhưng vẫn cố gắng phát huy lối đánh “Thái cực quyền” của Mao Trạch Đông, đó là phương châm: Địch lui – ta tiến, địch tiến – ta lùi, địch dừng lại – ta quấy rối.

Nhằm tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác của người dân bản xứ vốn đang phân vân hoảng loạn giữa 2 lực lượng quân đội ngoại bang đang đánh nhau trên lãnh thổ của mình, nguyên soái Bành cho thực hiện nghiêm khắc “3 đại kỷ luật, 8 điều chú ý” để tránh nhũng nhiễu đến dân.

Ridgway với tư duy quân sự mới và lối đánh “nhà giàu”, tận dụng hỏa lực dồi dào và không lực Hoa Kỳ, đã từng bước giành lại ưu thế.

Sau cuộc chiến tranh 3 năm, Mỹ cũng chiếm lại được một vài khu vực trước kia thuộc về CHDCND Triều Tiên. Hai bên giằng co rồi cũng đi đến ký kết ngưng bắn giữa Trung – Triều và Liên Hiệp Quốc ở Bàn Môn Điếm. Chiến tranh coi như kết thúc.

Đến ngày hôm nay, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam vẫn là hai cuộc chiến tranh mà nước Mỹ muốn quên lãng vì sự thất bại ê chề của họ. Chiến tranh VN kéo dài 20 năm nên khó quên. Trong khi đó, cuộc chiến tranh TT thì ở Mỹ đến nay vẫn gọi là “Cuộc chiến tranh bị lãng quên” (The Forgotten War) với hiện thực thua trận mà người Mỹ không muốn nhắc tới, không dám nhớ tới, để bảo vệ cho lòng tự tôn nước lớn “American dream” của mình.

(ST)

 

 

Nguyên nhân sâu xa Việt Nam giành được thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ

Trước khi bùng nổ cuộc chiến tranh xâm lược Bắc Triều Tiên và giao tranh với Trung Quốc ở cả hai chiến trường Nam Bắc, Hoa Kỳ đã trải qua 149 cuộc chiến tranh với hàng ngàn chiến dịch quân sự, hàng vạn trận đánh từ năm 1776 đến 1950, trong suốt quãng thời gian dài đó, quân đội Hoa Kỳ vẫn luôn là một cỗ máy chiến tranh vô địch, một cỗ máy quân sự bách chiến bách thắng, với một lực lượng không quân bất khả chiến bại.

Tại Triều Tiên, Mỹ thua Trung Quốc trên chiến trường Bắc Triều Tiên nhưng đã thắng lại trên chiến trường Nam Triều Tiên. Thống tướng Douglas MacArthur bị thua và mất chức Tổng tư lệnh nhưng Trung tướng Matthew Ridgway đã thay thế và giúp chỉ huy lực lượng Liên Hiệp Quốc do Mỹ cầm đầu giành lại được ưu thế.

Mỹ thua ở Bắc Triều Tiên là điều dễ hiểu, Trung Quốc là một nước lớn, với một quân đội đang tràn trề khí thế sau cuộc thắng lợi của cuộc nội chiến và thành lập quốc gia Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949.

Quân viễn chinh Trung Quốc đông gần gấp 3 lần quân viễn chinh Mỹ và lực lượng liên quân 15 quốc gia của Liên Hiệp Quốc cộng lại. Đạo quân đông đảo của Trung Quốc lại được chỉ huy bởi Thống soái Bành Đức Hoài, một người được xưng tụng là “đệ nhất danh tướng thời Dân quốc” và có biệt tài chỉ huy quân đội số lượng lớn. Bành Đức Hoài cả một đời cầm quân đánh Nhật và Quốc dân đảng chưa bao giờ thua trận.

Mặc dù chiến đấu trên danh nghĩa “chí nguyện quân” (quân tình nguyện) để tránh ý nghĩa chính trị là một cuộc chiến tranh chính thức với Mỹ, nhưng trên thực tế đây chính là những lão binh (tinh binh lão luyện) đặc biệt thiện chiến được Bành Đức Hoài, Trần Canh, Đặng Hoa sàng lọc tuyển chọn cực kỳ khắt khe.

Lực lượng được Bành Đức Hoài đưa sang Bắc Triều Tiên không bao gồm hàng binh Quốc dân đảng mà đều là những lão binh và bộ đội đặc chủng dày dặn kinh nghiệm sa trường trong những đơn vị đầu tiên của Hồng quân Trung Quốc như Tân Tứ quân, Bát Lộ quân.

Như vậy, mặc dù được trang bị lạc hậu hơn Mỹ và không có lợi thế sân nhà như trong chiến tranh kháng Nhật, đi đánh ở sân khách xa lạ và không có ưu thế về yếu tố địa lợi cho chiến tranh du kích, hay yếu tố nhân hòa cho chiến tranh nhân dân, bị buộc phải đánh theo trận địa chiến và chiến tranh quy ước theo kiểu Mỹ, song với tài cầm quân của Bành Đức Hoài, với một đạo quân mạnh cả về số lượng và chất lượng, năng lực chiến đấu cao, tinh thần quả cảm với lý tưởng cộng sản chống lại chủ nghĩa đế quốc, không khó để thấy vì sao quân đội TQ đẩy lui được quân đội Mỹ trên chiến trường Bắc Triều Tiên.

Tuy nhiên, khi chiến tranh lan rộng sang chiến trường Nam Triều Tiên thì quân đội Trung Quốc đã trở nên mệt mỏi với một cuộc chiến kéo dài nơi đất khách quê người, và họ đã bị thua quân đội Mỹ nhờ sự chỉ huy của tân Tổng tư lệnh của Mỹ là tướng Ridgway.

Trong Chiến tranh Việt Nam thì khác, từ khi Mỹ thua Việt Nam, hầu hết giới nghiên cứu, các nhà sử học, nhà quân sự, nhà chính trị học khắp Đông – Tây khi tìm hiểu về lịch sử Hoa Kỳ, về nước Mỹ, về quân đội Hoa Kỳ, và về cuộc chiến tranh Việt Nam đều đặt ra một nghi vấn, một câu hỏi: Tại sao Mỹ thua Việt Nam? Tại sao một xứ sở nhỏ bé và được cho là nhược tiểu như Việt Nam lại có thể đánh thắng được hai đế quốc hùng mạnh, trong đó có đại cường quốc Hoa Kỳ?

Với hơn 6 triệu lượt quân tinh nhuệ, kỷ luật, có kinh nghiệm chiến trường khắp năm châu, với các tướng lĩnh, sĩ quan dày dặn kinh nghiệm khắp thế giới qua Thế chiến II và chiến trường Triều Tiên, từng chiến thắng hầu hết các thế lực quân sự hùng mạnh, thiện chiến từ Á sang Âu. Một quốc gia trong lịch sử gần 200 năm chưa bao giờ nếm mùi thua một cuộc chiến tranh nào. Một lực lượng không quân vô địch, đánh đâu thắng đó, có sức mạnh áp đảo, với máy bay chiến lược B-52 tối tân nhất thế giới.

Họ dùng hơn 6 triệu quân trong nội địa Việt Nam, và cả nhiều căn cứ quân sự bên ngoài và chung quanh Việt Nam. Với một trình độ phát triển cao hơn nhiều bậc. Với một trình độ khoa học kỹ thuật vượt trội, áp đảo, với một sức mạnh quân sự, ngân sách quốc phòng, khả năng chi tiêu, công nghệ chiến tranh vượt trội. Với những vũ khí hiện đại, tối tân, kể cả vũ khí sinh học hủy diệt thiên nhiên, môi trường, mầm sống, sinh vật, cây cỏ, con người, hủy rụi những rừng già thiên nhiên tồn tại hàng ngàn năm để du kích không thể ẩn thân. Để lại những di chứng tàn khốc đến ngày nay và có thể ngàn năm sau. Họ có một nền tảng công nghệ và trình độ sản xuất vượt bậc và bỏ xa Việt Nam.

Họ huy động một lực lượng không quân trăm trận trăm thắng, với đủ mọi loại bom, từ bom chùm, bom bi đến bom Napalm rải thảm lên mảnh đất nhỏ bé, với hơn 8 triệu tấn bom, gấp gần 3 lần tổng số bom mà các phe rải xuống trái đất trong Thế chiến II nói riêng và trong lịch sử chiến tranh của nhân loại nói chung.

Trong 10 năm (1961-1971), quân đội Mỹ đã rải khoảng 75 triệu lít chất độc hóa học, trong đó phần nhiều là chất độc da cam, xuống hơn 10% diện tích đất và gần nửa diện tích rừng ở Việt Nam. Tất cả số bom và chất độc hóa học đó đều dồn lại dội xuống một mảnh đất nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu, một quốc gia có tổng diện tích thua nhiều tiểu bang của Mỹ.

Nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên và hoạt động môi trường Sarah DeWeerdt, cộng tác viên thường trực của Worldwatch Institute (Viện quan sát thế giới về môi trường) ở Washington (Mỹ), trong bài viết “Modern warfare equals environmental damage” (Các loại hình chiến tranh mới chính là sự hủy hoại môi sinh), đăng trên báo USA Today số tháng 1 năm 2008, đã cho biết sự tàn phá môi trường rộng lớn của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là một trong những nguyên nhân chính mà tiếng Anh có thêm một thuật ngữ mới: “Ecocide” (diệt sinh thái, tương tự thuật ngữ “Genocide” là diệt chủng con người).

Họ bỏ ra hàng tỷ USD lập ra những quân trường rộng lớn, hoành tráng, quy mô, mô phỏng địa lý, khí hậu, thời tiết, phong thổ, rừng cây Việt Nam, nhằm đối phó với chiến tranh du kích của Việt Nam. Họ xây dựng những cơ quan nghiên cứu, những nhà máy sản xuất những vũ khí đặc thù phù hợp với chiến trường Việt Nam để chống lại con người Việt Nam.

Họ làm đủ mọi cách có thể nghĩ ra, họ không bỏ qua một sơ hở nào, một yếu tố nào, một chi tiết nhỏ nào, họ tận dụng mọi lĩnh vực từ chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, tâm lý chiến v.v. đặc biệt là tận dụng ưu thế vượt trội về công nghệ và công nghiệp quân sự. Họ tận dụng mọi lợi thế về khoa học phục vụ chiến tranh. Với những lãnh đạo, tướng lĩnh, chuyên viên tài năng, chuyên nghiệp, làm việc một cách bài bản, khoa học, dưới tay là một đội quân nhà nghề không ai địch nổi.

Họ dùng chiến tranh điện tử với Hàng rào điện tử McNamara, “cây nhiệt đới”. Dùng chiến tranh hóa học với những chất độc sinh học, chất độc diệt rừng, hủy diệt dần mòn con người, môi trường, thiên nhiên, nhằm đè bẹp sức kháng cự của người Việt Nam, và dùng chất độc khai quang hủy diệt các rừng già, cây cỏ, gây khó khăn cho du kích Việt Nam ẩn thân, mai phục.

Vẫn chưa hài lòng với 2 loại hình chiến tranh điện tử và hóa học, Hoa Kỳ còn tiến hành thêm một loại hình chiến tranh công nghệ cao là chiến tranh khí tượng. Đây là một loại hình chiến tranh mà họ đã sử dụng những công nghệ tiên tiến, tối tân nhất cùng những thiết bị hiện đại nhất với mục đích làm đảo lộn, hủy diệt sinh thái, thiên nhiên, gây lụt lội, tắc ách ở trên những tuyến của con đường huyết mạch Trường Sơn chi viện từ Bắc vào Nam…. Nhưng rồi họ vẫn thua Việt Nam.

Học viện quân sự West Point nổi tiếng của Mỹ những năm sau 1975 đã mở nhiều hội thảo khoa học, nghiên cứu, phân tích, tranh luận từ các cựu hiệu trưởng, giáo sư, giảng viên và cựu giảng viên từng phục vụ trong trường, và những người thỉnh giảng được mời từ bên ngoài, thậm chí từ ngoài nước Mỹ. Họ trình bày các nghiên cứu cá nhân, tham gia phát biểu, hội luận, xem xét, thẩm định, đánh giá từng chiến dịch một, từng thời điểm một, và từng góc độ, từng khía cạnh, để giải đáp câu hỏi hóc búa: Tại sao chúng ta thua Việt Nam? Sau đó họ đã phải chỉnh sửa, cập nhật, thậm chí viết mới lại hoàn toàn, in lại nhiều giáo trình quân sự của trường.

Theo trung tướng Lưu Á Châu, Chính ủy Không quân Quân khu Thành Đô, Trung Quốc, khi bình luận chuyên sâu về chiến tranh Iraq trên tạp chí Khoa Học Quân Sự Không Quân của Trung Quốc năm 2010, thì cách thắng một cuộc chiến tranh trong lịch sử quân sự Hoa Kỳ thường là:

  • Áp đảo ngay từ đầu về chiến tranh thông tin, chiến tranh tâm lý, chiến tranh chính trị, tạo ra một sức ép vô hình, một áp lực khổng lồ vô ảnh.
  • Dùng lực lượng không quân và hải quân chất lượng nhất thế giới về năng lực tác chiến và vũ khí tối tân để chiếm lĩnh vùng biển và vùng trời, gây thêm sức ép, tạo thêm áp lực nghẹt thở vây hãm địch.
  • Dùng chiến tranh công nghệ cao và các lực lượng đặc nhiệm, biệt kích có tính lưu động cao, tác chiến nhanh chóng nhằm gây tê liệt hóa về quân sự và nhanh chóng chiếm lĩnh đầu não, thủ đô của đối phương. Đồng thời áp dụng chiến tranh tâm lý, trong đó có những thủ đoạn khủng bố tinh thần gây khủng hoảng tâm lý để gây tê liệt hóa về chính trị, xã hội.

Những chiến lược, chiến thuật trên của Mỹ thì ngoài Việt Nam ra cho đến nay chưa gặp đối thủ. Sở dĩ Mỹ thất bại trước Việt Nam, dựa theo các tiêu chí trên thì có thể xét đến các vấn đề sau đây:

  • Việt Nam cũng giỏi về chính trị, tình báo, tuyên truyền, và có ưu thế về yếu tố “nhân hòa”. Mỹ không thể áp đảo được.
  • Đúng là không quân và hải quân Mỹ đã hoành hành trên khắp vùng trời và vùng biển của Việt Nam và tận dụng ưu thế hỏa lực của họ. Nhưng ý chí của quân dân Việt Nam đã khiến hải quân Mỹ không thể gây sức ép tinh thần. Không quân vô địch của Mỹ thì gặp phải khắc tinh là hệ thống phòng không tinh nhuệ hàng đầu thế giới của Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tiên liệu và chú trọng xây dựng ngay từ đầu. Không quân Việt Nam không chọi lại Mỹ nhưng các đơn vị phòng không của Việt Nam thì có thể hóa giải không quân của Mỹ.
  • Các biệt đội cơ động, lực lượng đặc biệt, biệt kích thiện chiến tinh nhuệ của họ đều bó tay trước địa hình hiểm trở của Việt Nam, vốn là một ưu thế lớn cho lực lượng du kích bản địa, và thực tế là du kích miền Nam còn cơ động và nhanh nhẹn hơn biệt kích Mỹ nhiều, nhờ trang bị nhẹ và thông thạo đường đi nước bước. Mỹ không có cách bình định được miền Nam, không tiêu diệt được quân Giải phóng, không chiếm được những vùng giải phóng, vì vậy họ không thể tập trung lực lượng lớn để mở một cuộc tổng tấn công ở miền Nam, và càng không thể “mơ giữa ban ngày” về chuyện Bắc tiến, hay hoang đường hơn: Tiến vào Hà Nội chiếm lấy thủ đô của Việt Nam ở tận ngoài Bắc. Họ nhiều lần đem các loại máy bay oanh tạc tối tân nhất ra tàn phá Hà Nội, muốn gây tê liệt hóa đầu não của Việt Nam, nhưng các phi vụ đó đều bị đánh bại phải rút lui về sau những tổn thất nặng nề. Và dân tộc Việt không như những dân tộc khác, Mỹ càng gây tội ác để khủng bố tinh thần thì dân Việt càng bất khuất và căm thù giặc hơn, chẳng những không sợ mà càng nuôi giấu lực lượng kháng chiến, hối thúc con em, con cháu ra bưng biền theo Mặt Trận đánh giặc.

Việt Nam không chỉ đánh bằng quân đội như những đối thủ khác của Mỹ. Việt Nam tiến hành chiến lược chiến tranh nhân dân và kết hợp nhuần nhuyễn khôn khéo với chiến thuật du kích. Đánh trên cả 3 mặt trận: Chính trị, quân sự, ngoại giao. Với phương châm tấn công “2 chân, 3 mũi, 3 vùng”. Hai chân: Chính trị và quân sự. Ba mũi giáp công: Chính trị, quân sự, binh vận. Ba vùng chiến lược: Nông thôn, thành thị, miền núi.

Nguyên nhân trực tiếp của chiến công thắng Mỹ là nhờ sự lãnh đạo của Bộ Chính Trị Đảng Lao Động Việt Nam, đứng đầu bởi chủ tịch Hồ Chí Minh, với những nước cờ chiến lược đúng đắn, những quyết định chiến lược hợp lý về chính trị và quân sự. Và nhờ vào sự chỉ đạo chiến lược, chỉ đạo chiến thuật trực tiếp của Trung Ương Cục Miền Nam, cụ thể hóa những quyết sách chiến lược của Đảng Lao Động Việt Nam.

Về nguyên nhân sâu xa, quân đội Mỹ thắng khắp thế giới mà chỉ thua trong chiến tranh Việt Nam chính là vì người Việt có một nền văn hóa căn bản vững chắc lâu đời, đặc biệt là văn hóa giữ nước. Văn hóa, tư tưởng này được hun đút từ lòng yêu nước truyền thống của dân Việt truyền lại từ ngàn xưa.

Quân Mỹ không hẳn thua vì không thiện chiến bằng, không dũng cảm bằng, không trung thành bằng. Cũng không thua vì du kích Việt Nam, hay thua vì các khu rừng nhiệt đới ở Đông Dương, hay vì ruồi muỗi côn trùng, vì khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt dễ gây bệnh tật cho người ngoài, hay vì phong trào phản chiến đấu tranh dữ dội trên khắp mọi đường phố trong và ngoài nước Mỹ.

Mỹ thua Việt Nam vì dân tộc Việt Nam có một căn bản gốc rễ, cội nguồn văn hóa vững bền và điều này đã tạo ra một ý chí sắt thép cho từng người lính và người dân chống quân xâm lược. Đây là những ý chí sắt đá mà không một chương trình tâm lý chiến nào có thể hạ gục nổi.

Một số học giả, nhà nghiên cứu lâu nay tin rằng người Việt thắng Mỹ là nhờ vào khí hậu, thủy thổ, nhờ du kích tài ba, nhờ các chiến sĩ biệt động, đặc công tài giỏi, liều lĩnh không sợ chết, nhờ tướng giỏi…. đều không hoàn toàn đúng.

Việt Nam thắng Mỹ vì biết vận dụng lòng yêu nước của đại khối dân tộc, sử dụng vũ khí yêu nước đó chống lại quân xâm lược Mỹ. Vũ khí yêu nước đó có được chính là từ văn hóa giữ nước giữ làng sâu xa từ ngàn xưa, sau ngàn năm dựng nước và giữ nước, từ một chủ đạo dân tộc sâu sắc từ cội nguồn gốc rễ ăn sâu vào tim óc từng người con đất Việt. Đó là bản sắc dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa chủ đạo cơ bản gốc rễ vốn đã mạnh mẽ, vững chắc từ ngàn xưa.

Bác Hồ đã đúc kết văn hóa đó thành câu danh ngôn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước!”

Trong Đại Hội Đảng lần thứ 2, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói kỹ hơn: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.

chien tranh viet nam

Chiến Tranh Việt Nam

Những chiếc bánh nuôi quân.

(Theo Thiếu Long Texas)

“Sex”, ma túy và Chiến tranh Việt Nam

Miền Nam Việt Nam đã được giải phóng khỏi những gì?

Một thuộc địa kiểu mới, một xã hội thực dân mới thì đương nhiên cần phải được giải phóng khỏi tay giặc xâm lược bằng một cuộc kháng chiến chống xâm lược để giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền, giành lại quyền hành từ tay giặc xâm lược.

Nhưng bản thân xã hội trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam còn có những căn bệnh bất trị, đưa đến nhu cầu chính đáng cần phải được giải phóng.

Xã hội trong những đô thị bị tạm chiếm, về văn hóa thì méo mó, thác loạn, Tây hóa, Mỹ hóa. Đời sống tinh thần lệch lạc, đạo đức băng hoại, những phụ nữ ăn mặc hở hang đứng đường chào mời lính Mỹ là những hình ảnh thường thấy trên đường phố Sài Gòn, nhất là về đêm. Thường xuyên có những cô gái trẻ nhảy sông tự tử vì tình và vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Báo chí tư nhân rẻ tiền trần trụi và công khai xúc phạm phẩm giá những nhân vật công chúng để câu khách. Truyện khiêu dâm được xuất bản bán công khai đầy ở các nhà sách.

Ngoài các nạn nhân bị thương vong, dị tật, di chứng từ cuộc chiến, nạn nhân chất độc hóa học, người Mỹ còn để lại một nền kinh tế tê liệt, trên 3 triệu người thất nghiệp, gần 1 triệu trẻ mồ côi, khoảng 600 ngàn gái mại dâm, trên 1 triệu bệnh nhân nghiện ngập ma túy.

Đó là hậu quả của một thời kỳ ngoại thuộc lâu dài và buôn lậu ma túy gần 20 năm từ Diệm – Nhu và Trần Lệ Xuân cho đến Thiệu – Kỳ và Nguyễn Thị Lý, cũng như gia đình của họ. Trong nhiều phim tài liệu trong và ngoài nước, có thể thấy được ma túy được bày bán công khai ngoài chợ giữa ban ngày, nhất là ở Chợ Lớn.

Buôn lậu ma túy

Tiến sĩ ngành sử học Đông Nam Á Alfred W. McCoy là một sử gia có tên tuổi, ông viết cùng tác giả Cathleen B. Read trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á), do Harper & Row xuất bản năm 1972, về tình trạng buôn lậu ma túy và sự giao dịch giữa bọn tội phạm hình sự, bọn mafia quốc tế ở Đông Nam Á, đã tóm lược như sau:

Ngô Đình Nhu đã quyết định tái lập việc buôn bán ma túy để lấy tiền. Dù đa phần các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa 3 năm rồi, hàng ngàn con nghiện người Việt và người Hoa vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những người cầm đầu của các tổ chức xã hội đen, Hội Tam Hoàng của người Hồng Kông ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối ma túy nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút ma túy này đã hoạt động trở lại, và 5 năm sau, tuần báo Time đã ước lượng ở Chợ Lớn có đến khoảng 2.500 cơ sở hút ma túy hoạt động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê các phi cơ nhỏ của Hàng không Lào, giao cho trùm tội phạm quốc tế Bonaventure “Rock” Francisci phụ trách. Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo trung tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối quan hệ mờ ám giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất hợp pháp này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ vận chuyển món hàng này về miền Nam Việt Nam hàng ngày.

Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến đến Lào với nhiệm vụ là vận chuyển thuốc phiện sống về Sài Gòn bằng phi cơ quân sự của không quân Sài Gòn. Tuy nhiên, nhiều người trong nội bộ cho rằng bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng trá hình “Sở Nghiên cứu Chính trị – Xã hội”, do CIA tài trợ, mới thật sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này.

CIA là một ông “trùm ma túy”. CIA từng giao dịch ma túy với Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, và giúp máy bay cho Tưởng Giới Thạch vận chuyển và giao dịch thuốc phiện ở Miến Điện và Thái Lan. Trong chiến tranh Afghanistan lần thứ nhất (1979-1989), CIA đã giúp lãnh tụ Hồi giáo Gulbuddin Hekmatyar, một người chống Liên Xô, vận chuyển và giao dịch ma túy.

Ngày 13/4/1989, bản báo cáo của Hội đồng Kerry, do Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), đã kết luận rằng CIA đã dùng nguồn thu nhập từ ma túy để chi tiêu cho lực lượng đặc nhiệm Contra.

Nhà ngoại giao người Canada, Gs. Peter Dale Scott cho biết Guadalajara Cartel là đường dây buôn lậu ma túy mạnh nhất đầu thập niên 1980, chúng hoạt động thoải mái phần lớn nhờ sự bảo kê của cơ quan DFS, là một cơ quan ngoại vi của CIA do Miguel Nazar Haro phụ trách.

Vicente Zambada Niebla, con trai của Ismael Zambada García, là một trong những tay trùm ma túy lớn nhất ở Mexico, sau khi bị bắt đã khai với các luật sư của hắn rằng hắn và các cộng sự được các nhân viên người Mỹ cung cấp “giấy phép” đặc biệt để vận chuyển ma túy qua lại biên giới hai nước, để đổi lấy các tin tức tình báo nội bộ về cuộc chiến ma túy quy mô lớn đang diễn ra ở Mexico.

Ngoài ra CIA còn nhúng tay vào việc giúp đỡ giao dịch hoặc trực tiếp giao dịch ma túy ở Panama sau khi gần 3 vạn quân Mỹ tấn công nước này vào năm 1989. CIA còn từng có một thời gian dài dùng ma túy chiêu dụ lực lượng Vệ binh Quốc gia Venezuela để đổi lấy các thông tin tình báo. Việc này đến năm 1996 mới được đưa ra công luận.

Chiến tranh Việt Nam

Một quán bar ở Sài Gòn dưới thời Nixon (1969). Năm 1969 là thời điểm quân đội Mỹ tràn ngập miền Nam Việt Nam đông đảo với hơn 55 vạn quân. Trong năm này binh lính Mỹ ở Sài Gòn chi tiêu khoảng 30 triệu USD mỗi tháng (tương đương 210+ triệu USD theo thời giá năm 2020). Ngoài các viện trợ kinh tế dồi dào thì khoản tiển khổng lồ này cũng góp phần tạo ra vỏ bọc hào nhoáng phồn vinh giả tạo cho “Hòn ngọc Viễn Đông” của Mỹ.

 

Hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee trong sách The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy), do Cemetery Dance xuất bản năm 1999, đã cho biết như sau:

Năm 1958, khi Diệm-Nhu tái lập hệ thống lưu thông thuốc phiện về Sài Gòn, Bonaventure Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về miền Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng.

Sau đó, Francisci dự tính sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng chục ngàn bệnh nhân nghiện ma túy ở Sài Gòn. Trong khi việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, ngày càng phức tạp và khó khăn. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của ông ta.

Sau đó Francisci và Nhu đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana.

Về căn bản, các tập đoàn buôn lậu ma túy, mafia Mỹ, và ngụy quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành các đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Tiền tỷ chảy vào túi các bên liên quan.

Trong bài phê bình “Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975” của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, đã phê phán gay gắt:

“Trong thời Chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đặng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là có ‘cháy nhà mới lòi mặt chuột’ Nguyễn văn Thiệu.

Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký ” Việt Nam máu lửa quê hương tôi”, cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4/1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sỉ và danh dự của người lãnh đạo.”

Lối sống đồi trụy, thác loạn

Ngoài sự tê liệt vì tệ nạn buôn lậu ma túy, xã hội trong những vùng tạm chiếm còn bị tê liệt bởi lối sống sa đọa và đồi trụy. Khoảng 7 triệu lượt người Mỹ và cao điểm gần 60 vạn quân viễn chinh Mỹ ở trong vùng tạm chiếm, đã tạo ra các nhu cầu và văn hóa tiêu dùng mới.

Để “giúp vui” cho quân Mỹ, Mỹ-Thiệu cho mở cửa hàng loạt phòng tắm hơi, hộp đêm, nhất là ổ mại dâm, nhan nhản khắp Sài Gòn, đặc biệt là xung quanh các cư xá của người Mỹ. Thị trường mại dâm ở Sài Gòn trước năm 1975 được người dân quen miệng gọi là “chợ heo”, được Mỹ-Thiệu công khai hóa và hợp pháp hóa. Năm 1966, sau khi từ Sài Gòn về Mỹ, thượng nghị sĩ William Fulbright nhận xét: “Mỹ đã biến Sài Gòn thành một ổ mại dâm”.

Lối sống đồi trụy, thác loạn, không chỉ là hậu quả của sự có mặt của hàng chục vạn lính viễn chinh nước ngoài trong túi nhiều đô la Mỹ, mà theo một số người, nó còn nằm trong chủ trương ngầm nhằm đồi trụy hóa thanh niên miền Nam, làm cho giới trẻ quên đi hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược, không màng tới nghĩa vụ đối với giống nòi.

Từ đó xuất hiện ở Sài Gòn một dòng văn học khiêu dâm trong đó các tác giả chuyên khai thác thị hiếu thấp hèn của người đọc, đề cao “phần con” hơn “phần người”, công khai cổ vũ cho những lối sống bệnh hoạn, biến thái.

Bên cạnh những “phim con heo” (các danh từ “chợ heo”, “phim heo” này đều có nguồn gốc từ đây) bán công khai ngoài phố, báo chuyên in hình phụ nữ khỏa thân (Playboy, Penthouse, Nude….) bày bán công khai trên vỉa hè các đường Lê Lợi, Công Lý…. ở ngay trung tâm thành phố, là những tiểu thuyết “người lớn” của những “chuyên gia” viết truyện khiêu dâm như Chu Tử, Lê Xuyên, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thụy Vũ….

Những vấn đề nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống văn hóa – tinh thần của người dân. Sự sa đọa, trụy lạc trong xã hội đã gây ra nhiều thảm cảnh gia đình và hạnh phúc đổ vỡ, nhiều câu chuyện bi đát thương tâm. Qua các báo hằng ngày, không ngày nào là không có những vụ án mạng vì tình, những vụ tự tử, nhảy lầu, nhảy sông, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vì giành nhau một người đẹp, kể cả trong quân đội ở các chức vị cao nhất, một ví dụ là “phó tổng thống” Nguyễn Cao Kỳ thời đó, do “nổi tiếng” với thái độ ngang ngược chĩa súng cướp bồ nhí của đàn em nên bị mọi người gọi là “Kỳ Cao Bồi”.

Tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968, do NXB Đại học Cambridge (Anh) phát hành năm 2008, đã cho biết: “Chiến tranh cũng làm 100.000 thường dân thương vong mỗi năm. Dịch bệnh tăng vọt; dịch tả tăng từ hàng trăm lên đến 20.000 vụ. Khoảng từ 30.000 đến 50.000 người cụt chân tay chờ được lắp chân giả. Và chính phủ Sài Gòn chỉ dành chưa đầy 1% ngân sách cho dịch vụ y tế.”

Có lẽ từ những hiện thực trên mà sử gia Stanley I. Kutler trong Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do Simon & Schuster McMillan xuất bản năm 1996, đây là cuốn sách viết theo quan điểm và tuyên truyền chính thức và công khai của chính phủ Mỹ, đã phải viết về xã hội ở các đô thị miền Nam dưới thời Nixon như sau:

“Đối với hầu hết người dân trong các thành phố, đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn. Vào năm 1972, có vào khoảng 800 ngàn trẻ em mồ côi lang thang trên các vỉa hè trong các đường phố ở Sài Gòn và một số thành phố khác, sống bằng nghề ăn mày, đánh giày, rửa xe, móc túi và dẫn khách làng chơi về cho chính chị gái và mẹ của chúng. Có vào khoảng 500 ngàn gái mại dâm và gái bán ba, trong đó có nhiều người là bà vợ của anh em quân nhân trong quân đội Nam Việt Nam. Họ phải làm cái việc ô nhục này để phụ cấp đồng lương chết đói của ông chồng không đủ nuôi cho một người. Ngoài ra, lại còn có khoảng 2 đến 3 triệu người, trong đó có những người già cả hay thương phế binh của quân đội Nam Việt Nam không thể nào tìm được công ăn việc làm. Vào năm 1974, tình trạng đói đã lan rộng ra nhiều nơi ở miền Nam. Theo cuộc thăm dò của anh em sinh viên Ca-tô thì ngay trong khu vực giàu có nhất trong thành phố Sàigòn, chỉ có 1/5 tổng số gia đình có đủ ăn, một nửa tổng số gia đình cho là có thể lo được mỗi ngày một bữa cơm và một bữa cháo bằng thứ gạo rẻ tiền nhất. Các gia đình còn lại đều đói. Đói và thất nghiệp đưa đến tội ác, tự tử và biểu tình trong khắp các vùng do chính quyền Nam Việt Nam quản lý.”

 

Chiến tranh Việt Nam

Banner quảng cáo “Đại nhạc hội xuân vùng 4 chiến thuật” ở Sài Gòn (1971).

 

Theo Thiếu Long Texas