Chiến tranh Việt Nam: Ai đã gây ra “thảm sát Mậu Thân Huế”?

Trong Chiến tranh Việt Nam, ngoài những chiến dịch chiến tranh tâm lý rộng lớn và tội ác chiến tranh của Mỹ thì họ cũng thực hiện một chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn sau trận chiến 25 ngày nhằm chiếm lại thành phố Huế trong chiến dịch Mậu Thân 1968.

Sau trận đánh 25 ngày, Mỹ-Thiệu trong một sự kiện ở Huế mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân và nhiều cư dân Huế gọi là sự kiện “Hậu Mậu Thân” đã lùng sục trả thù, giết hại.

Bất kỳ người dân Huế nào có thiện cảm, có giúp đỡ Mặt Trận dù chỉ là vài lon gạo, vài đồng tiền dành dụm, hay cả nhà có 1 người nào đó theo cách mạng, đều bị đem ra trả thù, hành quyết. Họ đã nhuộm đỏ Huế bằng bom đạn trong nỗ lực chiếm lại thành phố. Và sau khi đã chiếm lại thì họ ngăn chặn phóng viên vào tác nghiệp, đồng thời mở cuộc tổng trả thù quy mô lớn.

Một nhân chứng ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa khi trả lời phỏng vấn trong phần 7 của loạt phim tài liệu 13 phần Vietnam: A Television History (Việt Nam: Lịch sử truyền hình), do đài PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne-2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành, đã cho biết: “Bắt đầu là chúng nó (Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống.”

Sau đó, Mỹ-ngụy gom lại xác những nạn nhân chiến tranh lại, trong đó phần lớn là những người dân bị chết bởi bom đạn Mỹ, những người dân bị chính họ tàn sát trả thù, những thi thể chiến binh Giải phóng và lính ngụy, cũng như những cộng sự của Mỹ, gom lại hết, rồi quay phim và chụp hình tuyên truyền giả dối đó là “nạn nhân thảm sát của Việt Cộng”, thậm chí sau đó một số kẻ viết thuê ở Sài Gòn còn nâng lên thành “hành quyết”, “chôn sống”, con số thì có những bài báo phóng đại lên đến “hàng triệu”.

Sau khi chiếm Huế, Mỹ-Thiệu phong tỏa khu vực, ngăn cấm tất cả phóng viên nào muốn vào Huế kiểm chứng các “hố chôn tập thể”. Sau khi đã dàn dựng xong, họ mới cho các phóng viên báo chí ngụy quyền, hoặc chống cộng, hữu khuynh vào đưa tin, làm phóng sự về “tội ác Việt Cộng”, rồi sau đó mới hoàn toàn cho phép các phóng viên quốc tế, trung lập vào tác nghiệp.

Nhà văn Trần Thị Thu Vân (Nhã Ca) sau đó được chỉ đạo viết tiểu thuyết “Giải khăn sô cho Huế” theo phong cách tự truyện, một dạng “hồi ký ma” được hư cấu từ trí tưởng tượng phong phú của một nhà văn tâm lý chiến chuyên nghiệp lĩnh lương Mỹ để tuyên truyền bôi nhọ lực lượng kháng chiến.

Chiến dịch chiến tranh tâm lý này tuy đã thành công lừa gạt được một bộ nhận nhỏ, nhưng không lừa dối được nhiều người Việt Nam và người dân thế giới, bởi vì:

– Chỉ cáo buộc suông, không có bằng chứng, không có hình chụp hay thước phim nào có những người lính Giải phóng trong đó.

Trong tất cả các hình ảnh về tội ác chiến tranh ở Việt Nam thì những bức ảnh lính Mỹ-ngụy gây tội ác nào mà có lính Mỹ-ngụy trong đó thì được công nhận là tội ác Mỹ-ngụy. Còn những bức ảnh không có lính Mỹ-ngụy trong đó thì bị các cơ quan tâm lý chiến tuyên truyền thành “tội ác cộng sản”.

Tất cả các bức ảnh được giới tâm lý chiến Sài Gòn và các tổ chức, báo chí chống Cộng tuyên truyền xưa nay đều không có bất kỳ 1 hình nào có người lính Giải phóng trong đó, chỉ thấy nạn nhân cùng những chú thích chụp mũ, gán tội vô căn cứ, không có bằng chứng, và giấu đi ai là kẻ thủ ác thật sự.

– Không hợp thường lý và không có tiền lệ. Quân Giải phóng sống trong dân, sống nhờ vào dân, được dân nuôi giấu, che chở, thảm sát dân chính là tự sát, là tự tuyệt đường sống của quân mình.

– Trái ngược với luật pháp Việt Nam, các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng Lao động, cũng như chính sách của Nhà nước VNDCCH và Mặt trận DTGPMNVN, hay các tuyên thệ, quân luật, cách làm, các tác phong, hành động quen thuộc trước đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Chiến lược của Việt Nam là chiến tranh nhân dân, với phương châm “quân với dân như cá với nước”. Mỹ-ngụy đã phải xây các trại tập trung như “Ấp chiến lược” để gom dân, dồn dân vào đó để tách dân ra khỏi quân, “tát nước bắt cá”.

Các chỉ thị từ trên xuống quân đội thường xuyên nhấn mạnh “phải dựa vào dân”. Vì vậy, những hành động gây tai tiếng, làm xấu hình ảnh trước nhân dân và dư luận quốc tế là không phù hợp với thường lý, không giống với tác phong quen thuộc của các anh bộ đội Cụ Hồ, “đội quân nhà Phật” (cách gọi của người Campuchia).

Thực tế đã cho thấy trước và sau cuộc tổng tiến công Mậu Thân thì sự ủng hộ của người dân Huế, người dân miền Trung và miền Nam đối với lực lượng kháng chiến vẫn là như thế không hề lay chuyển.

– Không phù hợp với các bằng chứng hay những lời kể từ các nhân chứng ở hiện trường, cũng như không được nhiều người trên thế giới tin tưởng, đề tài này không được các học giả xem là một đề tài nghiêm túc để đưa vào các tác phẩm, công trình nghiên cứu của họ. Nhìn chung, thông tin này không phù hợp với các nguồn tin, sách báo, tài liệu quốc tế.

– Xưa nay có nhiều phóng viên chiến trường như David Duncan, Robert Shaplen, nhà báo, nhà nhiếp ảnh người Pháp Marc Riboud, nhân viên Bộ quốc phòng Hoa Kỳ Townsend Hoopes và các nhà nghiên cứu độc lập như tiến sĩ Noam Chomsky, nhà kinh tế học Edward Herman, giáo sư tiến sĩ Gerath Porter, tiến sĩ Alje Vennema, sử gia Stanley Karnow, cựu phóng viên Bưu báo Washington (Washington Post) Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman v.v. đều đã góp phần vạch trần chiến dịch thông tin bôi nhọ này của Mỹ-ngụy.

Trải qua nhiều quá trình điều tra và tìm hiểu cặn kẽ, họ cho rằng đây là một chiến dịch tuyên truyền chiến tranh tâm lý của Mỹ – Sài Gòn, chủ yếu nhằm mục đích đối trọng với thảm sát Sơn Mỹ và làm át đi những tiếng vang ồn ào do nhiều cuộc thảm sát dân thường của Mỹ mà đã gây ra những phiền phức cho chính phủ và quân đội Mỹ trong công chúng, đồng thời đánh mạnh đáng kể vào “uy tín”, hình ảnh thương hiệu Mỹ, danh dự và hình ảnh quốc gia của Mỹ trên thế giới.

Theo blogger Thiếu Long (Texas, Hoa Kỳ)

Hậu quả chiến tranh Việt Nam

Theo các hồ sơ, tài liệu của Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội, sau đây là các loại bom mà không quân Hoa Kỳ sử dụng ở Việt Nam:

  • Bom phá MK-81, MK-82, MK-83, MK-84, M117A1, T55-E6 sử dụng để diệt mục tiêu bằng sóng xung kích và mảnh của vỏ bom.
  • Bom mảnh sử dụng các mảnh thân bom để tiêu diệt mục tiêu lộ thiên hoặc thiết giáp hạng nhẹ khi nổ.
  • Bom xuyên sử dụng để diệt các mục tiêu bọc thép, phá hủy những công trình kiên cố, đường hầm, địa đạo, công trình bê tông cốt thép bằng cách xuyên vào mục tiêu và nổ.
  • Bom cháy sử dụng để diệt mục tiêu, sát thương sinh lực, đốt cháy nhà cửa, cây cối.
  • Bom hóa học sử dụng để diệt sinh lực hoặc gây nhiễm độc địa hình và các phương tiện kỹ thuật bằng chất độc quân sự. Các loại bom hóa học Mỹ ném xuống Việt Nam thường chứa chất độc kích thích CS, chất độc tâm thần BZ, LSD, Mescalin pxyloxin….
  • Bom phát quang thường dùng để phát quang nhanh khu vực rừng rậm, mặt đất để dọn bãi cho trực thăng đổ bộ và bố trí trận địa pháo.
  • Bom chống tăng dùng hiệu ứng nổ lõm để diệt xe tăng, mục tiêu bọc thép khác và kho chứa….
  • Bom chùm thường sử dụng để sát thương diện rộng, có kết cấu bom mẹ chứa bom con.

Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội Bùi Hồng Lĩnh cho biết kết quả điều tra trên cả nước có khoảng 66.000 km2 còn tồn đọng vật liệu bom, mìn. Ước tính còn khoảng hơn 600.000 tấn bom mìn đang tồn tại dưới đất. Hiện mới chỉ có khoảng 20% lượng bom, mìn được tháo gỡ. Bình quân mỗi năm có khoảng 20.000 ha đất được rà phá. Với tiến độ này, khoảng 300 năm nữa mới có thể loại bỏ được hết các loại bom mìn chưa nổ.

Bom mìn còn sót lại sau cuộc chiến này đã gây tổn thất nặng nề về sinh mạng, tài sản, đời sống của người dân, ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Bom mìn đã cướp đi mạng sống của 10.529 người, làm 12.231 người bị thương, trong đó 25% các thương tích này là ở trẻ em lứa tuổi từ 14 tuổi trở xuống. Bom mìn do quân đội Hoa Kỳ mang đến Việt Nam tàn phá còn sót lại khoảng hàng trăm ngàn tấn, rải rác trên khắp cả nước, đặc biệt các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ đã huy động hàng triệu người Mỹ, trong đó có 4.649.000 người dưới 20 tuổi, khoảng 40% các nhà khoa học vật lý, 260 trường đại học, khoảng 22.000 xí nghiệp lớn với khoảng 5,5 triệu công nhân phục vụ cuộc chiến. Trên 6 triệu người Mỹ sinh sống và sinh hoạt trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam, hậu quả là gần nửa triệu con lai Mỹ ra đời, nhiều người về sau vẫn không biết cha mình là ai, nhiều đứa trẻ phải sống trong các viện cô nhi cả trong và sau cuộc chiến.

Riêng năm 1968, mỗi ngày Mỹ chi phí cho chiến tranh Việt Nam lên đến khoảng 100 triệu USD, gấp 10 lần chi phí cho cuộc chiến chống nghèo đói ở Mỹ trong thời gian đó. Riêng những hậu quả về con người: Tính từ giữa năm 1961 đến năm 1974, đã có tổng số 57.259 người Mỹ đã tử trận ở Việt Nam. Nếu tính theo toàn bộ thời gian cuộc chiến, từ năm 1954 đến 1975 thì có tổng số 58.168 người Mỹ đã chết ở Việt Nam. Tháng 11 năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ đã khánh thành Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam để tưởng niệm những công dân Mỹ đã chết ở Việt Nam, bản danh sách ban đầu gồm 57.939 người.

Số lượng quân nhân Mỹ bị mắc bệnh tâm thần trong và sau thời gian viễn chinh ở Việt Nam là nhiều nhất trong tất cả cuộc chiến mà quân đội nước này từng trải qua trong lịch sử, bao gồm cả cuộc chiến tranh với Trung Quốc ở Bắc Triều  Tiên.

Nhiều nhà xã hội học Mỹ cũng xác nhận: Kể từ sau năm 1975 đến nay, năm nào cũng có những cựu binh Mỹ đã từng chinh chiến ở Việt Nam bị mắc phải “hội chứng Việt Nam”, vướng vào ma túy hoặc lạm dụng thuốc men, thuốc bán lậu trái phép, nghiện ngập, trầm cảm rồi tự sát.

Lần đầu tiên, trong cuộc họp báo chính thức vào năm 1988, chính phủ Mỹ buộc phải thừa nhận chính thức có khoảng 15% trong số lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam trở về bị rối loạn tâm thần nghiêm trọng.

Cựu binh Jim Doyle và David Curry là 2 trong số khoảng 6 triệu quân Mỹ bị chính phủ họ đẩy vào “vũng lầy Việt Nam” qua các năm từ 1955 đến 1973 khi quân đội chủ lực rút về nước và 1975, khi Thủy quân Lục chiến Mỹ trở lại Việt Nam với chiến dịch Frequent Wind để bảo vệ an toàn cho 2 vạn sĩ quan “tùy viên quân sự” Mỹ.

Jim Doyle đã bị đẩy tới chiến trường Việt Nam khi mới 18 tuổi, mặc dù may mắn sống sót trở về, nhưng đến giờ người cựu binh này vẫn không thoát khỏi nỗi ám ảnh: “Chiến tranh là địa ngục. Nó tác động ghê gớm đến con người như một vết thương không thể hàn gắn.”“Cuối cùng, tôi nhận ra rằng, chiến tranh không chỉ lấy cắp thời thanh niên của tôi mà còn đeo đuổi, ám ảnh suốt cuộc đời tôi”.

(Tổng hợp)

Tại sao miền Nam Việt Nam cần được giải phóng?

Chúng ta thường hay nghe khẩu hiệu “giải phóng hoàn toàn miền Nam”, câu này có ý nghĩa là giải phóng nốt những vùng tạm chiếm còn lại ở miền Nam Việt Nam ngoài những vùng đã giải phóng, xóa bỏ tình trạng “mảnh da báo” đốm đen đốm trắng (vùng tạm chiếm, vùng giải phóng) ở miền Nam Việt Nam.

Như vậy, miền Nam Việt Nam đã được giải phóng khỏi những gì? Trước hết là khỏi sự chiếm đóng của quân đội Mỹ, sự thao túng, lũng đoạn của giặc ngoại xâm, ách đô hộ thực dân trá hình, và các tội ác chiến tranh của giặc xâm lược và tay sai bản xứ.

Sau giải phóng, miền Nam không còn bóng giặc, không còn tiếng bom đạn, không còn những ngày đêm vùng vẫy trong những nhà tù lớn, những trại tập trung được gọi là “Ấp chiến lược” đầy kẽm gai bao quanh, không còn những ngày đêm bị càn quét, không còn những trận càn, ruồng bố, khủng bố trắng, thảm sát, hủy diệt hàng loạt và những tội ác chiến tranh to lớn mà nhiều người coi là những tội ác diệt chủng, chống loài người.

Không còn những thảm cảnh giết người đốt nhà, thảm sát, “ba sạch” (phá sạch, giết sạch, đốt sạch). Không còn những cảnh phụ nữ, trẻ con bị hiếp rồi giết. Không còn những cảnh những bà cụ, ông lão bị lùa xuống mương rồi xả súng. Không còn những tên giặc giơ thủ cấp của người Việt yêu nước khoe khoang trước ống kính. Không còn những đạo luật giết người, “lê máy chém” khắp nơi.

Không còn bọn mật vụ Phượng Hoàng hàng ngày hàng giờ lùng sục bắt cóc, thủ tiêu. Không còn những tên lính giặc không coi người Việt là loài người như sĩ quan Mỹ Celina Dunlop đã tự bạch trên kênh BBC Anh ngữ tháng 3 năm 2008: “Phần lớn trong nhóm chúng tôi không coi người Việt là loài người.” Không còn những thảm kịch hành hạ, tra tấn, cắt bỏ các bộ phận cơ thể phụ nữ, trẻ em. Không còn ai bị đày ra Côn Đảo, Phú Quốc, bị nhốt trong những “chuồng bò”, “chuồng cọp”. Bom đạn và chất độc hóa học không còn rơi lên trên đất Việt, người Việt.

Không còn những bi kịch lính Mỹ đối đãi bất công, đánh đập, xử oan, “dội bom nhầm” lên một bộ phận lính ngụy, sĩ quan ngụy, giết “tổng thống” ngụy. Không còn những lần người Mỹ đem quân ngụy làm chuột bạch thí nghiệm và lùa lính ngụy đi vào chỗ chết. Không còn cảnh tượng lính Mỹ hãm hiếp, bắt làm nô lệ tình dục vợ con, người thân của lính ngụy. Không còn cảnh những cô gái Sài Gòn phấn son lòe loẹt với những chiếc váy không thể ngắn hơn đứng đầy ngoài đường chào mời lính Mỹ.

Không còn những căn cứ quân sự nước ngoài đầy kẽm gai bao quanh, hơn 6 triệu lượt quân viễn chinh và chư hầu tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, không coi ai ra gì, cướp – hiếp – giết khắp nơi, xâm hại chà đạp lên phẩm giá đạo đức, nhân phẩm người Việt và quyền con người.

Không còn những phận đời trôi nổi của gần nửa triệu con lai và trẻ mồ côi của hơn 6 triệu người Mỹ, khiến sau này hình thành một diện xuất cảnh chưa từng có tiền lệ trên thế giới là “diện con lai”.

Chiến tranh Việt Nam

Nhiều trẻ em con lai Mỹ được lính Mỹ đưa về Hoa Kỳ trong những ngày cuối tháng 4 năm 1975.

 

Nông thôn và đô thị miền Nam cũng không còn những lần biểu tình bị đàn áp dã man bằng dùi cui, súng đạn. Những sân trường miền Nam không còn đổ máu, không còn những người dân, thanh niên, sinh viên miền Nam ngã xuống trước quân đội Mỹ và cảnh sát ngụy.

Nói chung, không còn hàng ngàn cuộc thảm sát ở miền Nam Việt Nam, không còn hàng chục ngàn tội ác của quân xâm lược trong 20 năm xâm lược miền Nam Việt Nam. Không còn những mảnh đời đau khổ, trong đó có cả lính ngụy và người thân của họ. Không còn cảnh người Mỹ lộng hành khắp miền Nam như đất vô chủ, muốn giết ai thì giết, từ phụ nữ, trẻ em, cụ già cho đến “tổng thống”.

 

Theo Thiếu Long Texas

Chiến tranh Việt Nam: Vì sao nói “nhà Ngô” là “tam đại Việt gian”?

Chientranh Vietnam

Người dân miền Nam Việt Nam dưới thời Eisenhower và Kennedy thường gọi “nhà họ Ngô” là “tam đại Việt gian” (Việt gian ba đời). Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này.

Đời 1. Ngô Đình Khả dẫn quân lính đạo, phụ tá đại Việt gian Nguyễn Thân đánh dẹp căn cứ nghĩa quân của Phan Đình Phùng và Cao Thắng ở Vụ Quang trong chiến dịch đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Ngô Đình Khả làm tay sai cho Pháp và phò tá Nguyễn Thân trả thù nghĩa quân Phan Đình Phùng vô cùng dã man, tàn bạo tương tự cách Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn. Những tội ác này được coi là tội ác diệt chủng, chống loài người nếu xét theo tiêu chuẩn ngày nay.

Đời 2. Con của Ngô Đình Khả: Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, làm quan cho Pháp, làm “Thủ tướng” cho Bảo Đại (Pháp), làm “Tổng thống” cho Nam Việt Nam (Mỹ), Ngô Đình Thục làm quan cho Vatican.

Năm tháng sau khi được bù nhìn Bảo Đại bổ nhiệm làm “Thủ Tướng”, ngày 10/11/1954, Ngô Đình Diệm gửi cho bù nhìn Bảo Đại một lá thư tái xác nhận “lòng trung thành của dòng họ chúng tôi” với triều đình thuộc địa thời Pháp thuộc. Bản gốc bức thư được bà thứ phi Mộng Điệp lưu giữ tại tư gia ở Pháp.

Trong thư của Giám Mục Pierre Martin Ngô Đình Thục, Giám Quản Tông Tòa Giáo Phận Vĩnh Long, gửi Đô Đốc Pháp Jean Decoux, Toàn Quyền Đông Dương (lưu giữ ở Trung tâm các Văn khố Hải ngoại, CAOM, Aix-en-Provence ở Pháp), đã tự hào về lòng trung thành “tận tụy của các em tôi” và tự nhận định về gia đình mình là “Một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh…… Truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi. Ngay chính các em tôi đã từng liên tục đưa mạng sống ra vì nước Pháp, trong cuộc nổi loạn của Cộng Sản. Diệm, người em kế tôi, suýt đã phải ngã gục dưới những phát súng của một Hoa kiều Chợ Lớn được phái đến Phan-rang với mục đích hại Diệm, Phan-rang là nơi mà Diệm đã mãnh liệt chống giữ lối xâm nhập vào An-nam của các cán bộ Cộng Sản từ Nam Kỳ phái đến…… Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp.”

Tại New York, Mỹ (13/5/1957), trong buổi tiệc ngoại giao, Ngô Đình Diệm nói: “Biên giới Mỹ không dừng bước ở Alaska, mà kéo dài ở Đông Nam Á, tới sông Bến Hải tại vĩ tuyến 17 của Việt Nam, hình thành một biên giới của thế giới tự do, cái mà tất cả chúng ta đều trân trọng.”

Đời 3. Ngô Đình Huân con của Ngô Đình Khôi, làm tình báo cho phát xít Nhật.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam đáng lẽ phải được độc lập, hòa bình, thống nhất. Nhưng do mưu cơ của Mỹ, Việt Nam đành tạm thời bị chia đôi thành 2 vùng lãnh thổ với 2 hệ thống chính trị xã hội khác biệt. Vĩ tuyến 17 trở thành một giới tuyến quân sự tạm thời (Military Demarcation Line) có thời hạn 2 năm (1954-1956).

Để thực hiện mưu đồ xâm lược, người Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về và đưa lên làm “thủ tướng” cho Quốc Gia Việt Nam (Pháp), năm 1955 sáng tạo ra chính quyền Ngô Đình Diệm và đưa lên làm “tổng thống”.

Nhà họ Ngô “tam đại việt gian” cũng dựa hơi Mỹ để xây dựng chính quyền và “Vatican hóa”, “Hoa Kỳ hóa”, “Kitô hóa” quốc thổ và lê máy chém khắp miền Nam chặt đầu hành quyết như thời trung cổ những ai không chịu cúi đầu phục tùng, vì mục đích gia tộc và tôn giáo vị kỷ, hẹp hòi, vĩ cuồng, vì thù hận riêng tư của gia đình để trả thù người chống Pháp thời Chiến tranh Đông Dương, phản dân tộc, chống dân tộc và chống lại nguyện vọng độc lập hòa bình thống nhất của quốc gia, dân tộc.

Chính quyền Sài Gòn được ngoại bang xây dựng lên một cách bất chính với một quân đội mà bộ khung của nó bao gồm các tướng tá đã từng đi theo thực dân Pháp đàn áp nghĩa quân thời Pháp thuộc và vác cờ ba que đánh lại Việt Minh trong chiến tranh Đông Dương. Chính quyền đó sẽ sụp đổ ngay lập tức nếu bị Mỹ bỏ đói.

Trong 9 năm làm cai thầu chống phá cách mạng miền Nam cho Mỹ và đánh phá Phật giáo miền Nam cho Vatican thì anh em Diệm, Nhu và “bạo chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn đã gây ra những gì?

Sau đây là những nét đại khái:

– Dẹp bỏ ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương

– Xé bỏ Hiệp nghị Genève về việc sẽ thống nhất đất nước vào năm 1956

– Bày ra luật dã man 10/59 trên danh nghĩa “tố Cộng – diệt Cộng” nhưng thực tế đã diệt chủng nhiều trăm ngàn mạng người mà tuyệt đại đa số ở đó là: Những người kháng chiến chống Pháp 1946-1954, “người lương”, người Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo.

Tại sao không “tố” và “diệt” những ông bà đảng Cộng sản Mỹ, đảng Cộng sản Pháp, Cộng sản Anh, cộng sản Tây Ban Nha, trước khi người ta đưa quân chở bom đạn, mướn lính “chư hầu” đến VN “lùng và diệt” Việt Cộng?!

Tàn ác nhất là các đảng phái đối lập (với đảng Cần Lao Công giáo) và những chính khách đã từng “vây quanh” Diệm vào lúc ban đầu (1954 – 1955) đều bị Diệm, Nhu, Cẩn cho tay chân mật vụ bắt cóc thủ tiêu.

Riêng biến cố Phật giáo, nó chỉ bắt đầu khởi đi bằng những ý chí cương quyết bởi những nhà lãnh đạo Phật giáo và Phật tử là đêm Phật Đản ngày 8.5.1963 sau khi anh em Thục, Diệm, Nhu, Cẩn cho lính điều xe bọc thép, dùng hỏa lực quân dụng chiến tranh đàn áp dã man người dân miền Nam Việt Nam đang biểu tình trước cửa đài phát thanh Thừa Thiên – Huế.

Trong sách “Pháp nạn Phật giáo 1963: Nguyên nhân, bản chất và tiến trình”, Thượng Tọa Thích Nhật Từ nói thẳng: “Nhà họ Ngô khát máu tiếp tục thi hành chính sách cường hào ác bá, giết kỳ hết những người phản đối họ.”

Chien tranh Viet Nam

Người Mỹ biểu tình với biểu ngữ nhắc lại lời nói của tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower về việc Hồ Chí Minh sẽ thắng cử với khoảng 80% lá phiếu và lý giải rằng đó là lý do mà nhà độc tài con rối Diệm của Mỹ (American puppet dictator Diem) không thực thi tổng tuyển cử. Còn tự do thì sao hở ngài Johnson? Chúng tôi không muốn chiến tranh.

Theo Trần Quang Diệu (Sách Hiếm, Đấu Trường Dân Chủ)

 

Chiến tranh điện tử dữ dội nhất thế giới ở Việt Nam

Cuộc chiến tranh điện tử mạnh mẽ và dữ đội nhất trong lịch sử tác chiến đã xảy ra trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, là cuộc đối đầu giữa một thế trận phòng không nhân dân nhiều tầng nhiều lớp, với một lực lượng không quân cường kích mạnh nhất thế giới, với mọi loại vũ khí, trang thiết bị vô cùng hiện đại.

Sự phát triển mạnh mẽ tác chiến điện tử Không quân – Không quân Hải quân Mỹ ở Việt Nam

Trong những năm đầu của cuộc chiến tranh đường không lớn nhất trong lịch sử chiến tranh từ sau đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng không quân Mỹ chỉ phải đối phó với lực lượng súng pháo phòng không các cỡ nòng từ súng trường đến pháo phòng không 100 mm.

Chỉ có hệ thống pháo phòng không 57mm được kết nối với radar điều khiển bắn. Do đó, tác chiến điện tử (TCĐT) chỉ nằm trong lĩnh vực sử dụng máy bay trinh sát các độ cao, từ máy bay U-2, SR – 71 đến máy bay trinh sát không người lái.

Sự xuất hiện của hệ thống tên lửa phòng không S-75 Dvina đã làm thay đổi tất cả. Chưa bao giờ các phi công Mỹ cảm thấy khủng khiếp khi bay vào bầu trời Hà Nội, số lượng máy bay bị bắn hạ tăng lên đến chóng mặt và buộc Bộ Tổng tham mưu Không quân và Không quân Hải quân Mỹ phải khẩn cấp đối phó.

Những phương tiện chế áp điện tử được nhanh chóng nghiên cứu và chế tạo dựa trên các thông số kỹ chiến thuật của những tổ hợp tên lửa S-75 Dvina do Israel thu được từ liên quân các nước Ả rập.

Đỉnh cao của các hoạt động TCĐT trong cuộc không chiến trên bầu trời miền Bắc là các chiến dịch Linebacker I và Linebacker II vào năm 1972, có sự tham gia với quy mô lớn của máy bay ném bom chiến lược B-52.

Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch mà các hoạt động TCĐT của Không quân Mỹ được triển khai với quy mô lớn nhất, áp dụng những công nghệ hiện đại nhất và thực hiện có hiệu quả cao nhất tính từ thời điểm áp dụng các phương tiện chế áp điện tử chống hệ thống phòng không miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là hệ thống tên lửa S-75 Dvina trong thế trận phòng ngự Hà Nội, Hải Phòng.

Cơ cấu tổ chức của hệ thống TCĐT quân đội Mỹ trong chiến dịch Linebacker II

Trong quá trình tiến hành chiến dịch không kích đường không mang tính chất quyết định cuộc chiến tranh Việt Nam trên cả lĩnh vực chính trị và quân sự. Bộ Tổng tham mưu liên quân quân đội Mỹ đã triển khai trên quy mô rộng lớn các hoạt động TCĐT, xác định hệ thống đồng bộ các hoạt động TCĐT là yếu tố quyết định quan trọng đảm bảo các hoạt động tác chiến của lực lượng không kích đường không. Các hoạt động TCĐT bao gồm có:

– Tìm kiếm và phát hiện tất cả các khí tài radar điện tử của hệ thống phòng không.;

– Chế áp điện tử tất cả các đài radar của các phượng tiện, vũ khí phòng không của Việt Nam;

– Sử dụng các đầu đạn (bom, tên lửa tự dẫn chống radar) tiệu diệt và phá hủy các phương tiện phát sóng radar của hệ thống phòng không.

Các hoạt động TCĐT được triển khai trên tất cả các mục tiêu và mục đích tác chiến ở tầm chiến lược cũng như tầm chiến thuật. Các nhiệm vụ trinh sát chiến lược được thực hiện bởi các máy bay như SR-71, U-2 và RC-135, các nhiệm vụ trinh sát chiến thuật được thực hiện bởi các đài trinh sát điện tử – radar chế độ thụ động, lắp đặt trên tất cả các máy bay chiến lược, chiến thuật và máy bay thuộc không quân hải quân.

Các bộ khí tài trinh sát radar được nêu trong bảng sau:

Các đài trinh sát điện tử APR-25 (26), APR-36 (37) và APS-109 cho phép các phi công Mỹ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ không những phát hiện được bị chiếu xạ bằng radar của vũ khí phòng không, mà còn theo các thông số nhận được xác định được loại radar, hướng chiếu xạ radar và khoảng cách từ đài radar đến các máy bay.

Thông tin về radar được truyền đến phi công và cơ trưởng bằng tín hiệu âm thanh và được hiển thị trên màn hình bảng đặc biệt cùng với các đèn tín hiệu. Hướng chiếu tia quét radar và nguồn phát đài radar cũng như khoảng cách đến đài radar được xác định bằng các thông số tín hiệu trên màn hình đặc biệt hiển thị bằng các chỉ số điện từ. Ví dụ như trên đài trinh sát ARR-25 (26) có 4 giải pháp indicator hiển thị tín hiệu:

– Màn hình hiển thị indicator “góc phương vị – tầm xa”;

– Bảng báo hiệu chiếu sáng và tín hiệu đèn nhấp nháy;

– Tín hiệu âm thanh trong tai nghe mũ lái;

– Đồng hồ và kim chỉ mức độ nguy hiểm.

Hướng chiếu xạ của radar được xác định bằng các anten thu thụ động với các vùng thu sóng radar chùm lên nhau, xác suất sai lệch xác định góc phương vị từ 1-2°. Tầm xa của các đài radar có xác suất sai lệch lớn hơn, dựa trên công suất chùm sóng radio chiếu xạ lên máy bay (tính trên những thông số kỹ chiến thuật mẫu về các đài radar của Phòng không Việt Nam) do đó có độ chính xác không cao.

Kiểu loại và tính năng kỹ chiến thuật của các phương tiện phòng không cũng được hiển thị lên màn hình indicator điện từ. Khi máy bay bị chiếu xạ bởi nhiều đài radar khác nhau, hệ thống phụ thuộc vào các thông số của bức xạ radio, độ dài của bước sóng, công suất của chùm sóng hoặc đường truyền xung để xác định các đài radar cũng như góc và hướng phát. Thông tin lần lượt theo mức độ ưu tiên nguy hiểm hiển thị lên màn hình indicator điện tử.

 Máy bay tác chiến điện tử EB – 66.
Máy bay tác chiến điện tử EB – 66.

Thực hiện công tác chế áp điện tử, trên máy bay ném bom chiến lược B-52 và máy bay tác chiến điện tử EB – 66 có các đài trinh sát ALR-20. Đài có nhiệm vị xác định tần số phát sóng của các đài radar và hiệu chỉnh các đầu phát xung gây nhiễu, được lựa chọn để chế áp các đài radar.

Như vậy, bằng các trang thiết bị điện tử có trên máy bay, các phi công có khả năng đánh giá được tình hình môi trường điện từ trên chiến trường, xác định mức độ nguy hiểm từ các đài radar theo dõi, radar pháo phòng không và radar tên lửa, từ đó xác định thời điểm lực lượng phòng không mặt đất phóng tên lửa, từ những thông tin nhận được, quyết định các hoạt động cơ động tránh tên lửa hoặc sử dụng vũ khí tên lửa chống radar.

Các hoạt động tác chiến nhằm chế áp điện tử lực lượng phòng không

Không quân và Hải quân Mỹ, trước thế trận phòng không dày đặc của miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là khu vực Hà Nội và Hải Phòng, đã nỗ lực tổ chức và triển khai TCĐT trên quy mô lớn nhất nhằm phá hoại và cắt đứt mọi hoạt động điều hành tác chiến của Bộ Tham mưu lực lượng Phòng không – Không quân, đồng thời giảm đến tối thiếu khả năng chiến đấu của vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu của không quân và phòng không Việt Nam.

Để thực hiện mục đích đó, quân đội Mỹ sử dụng triệt để các phương tiện chế áp bằng gây xung radio nhiễu loạn trong không gian điện từ, gây nhiễu chủ động và rải gây nhiễu thụ động. Số lượng các đầu phát nhiễu radio điện từ phụ thuộc vào loại máy bay và nhiệm vụ chiến đấu được giao.

Trên máy bay ném bom chiến lược B – 52  lắp đặt 15 đầu phát xung điện từ radio gây nhiễu chủ động, trên máy bay tác chiến điện tử EB -66 lắp 12 đầu phát xung gây nhiễu, trên các máy bay chiến thuật có từ 2 – 4 đầu phát. Các đầu phát xung radio gây nhiễu có thể phát xung che phủ một dải tần số từ 40 đến 10500 MHz .

Thiết bị gây nhiễu tập trung nhiều vào dải tần số hoạt động của các tổ hợp khí tài điện tử radar trinh sát tầm xa, radar điều khiển và dẫn bắn tên lửa phòng không, pháo phòng không và radar dẫn đường máy bay tiêm kích của quân chủng Phòng không Không quân.

Hoạt động chế áp điện tử nhằm vào các loại radar như P -12, P- 15, P-35, PRV 11, đài điều khiển và dẫn đường tên lửa RSNA – 75M, đài điều khiển hỏa lực phòng không SON – 9, đài radar theo dõi, ngắm bắn mục tiêu của máy bay tiêm kích RP – 21M, các đài vô tuyến R – 405 và tổng đài tác chiến R – 109. Trên các máy bay B-52 và máy bay TCĐT EB -66 lắp đặt các đài phát gây nhiễu các rãnh đạn RSNA – 75M, trên các máy bay chiến thuật không lắp đặt các loại này.

Gây nhiễu thụ động chủ yếu sử dụng các cuộn dây bạc lượng cực phản xạ sóng radar, che chắn các dải tần số có bước sóng cm, dm, m. Gây nhiễu thụ động thường được máy bay chiến thuật F-4 Phantom thực hiện bằng các avtomat và các thùng container dây băng gây nhiễu.

Các chùm dây băng gây nhiễu thụ động này được sử dụng để che chắn và ngụy trang đội hình không kích của máy bay ném bom chiến lược, chiến thuật và không quân hải quân, đồng thời cũng được dùng để tự vệ ngụy trang trước nguy cơ bị tên lửa phòng không bắn rơi. Hệ thống các bộ khí tài gây nhiễu được tổ chức như sau:

– Hệ thống khí tài gây nhiễu chủ động (nhiễu loạn sóng radio chủ động chế áp các đài radar được phát từ các máy bay ném bom chiến lược, máy bay chiến thuật, máy bay TCĐT EB – 66 và các chiến hạm thuộc hạm đội 7 đang hoạt động ngoài khơi vịnh Bắc Bộ.

– Các đài gây nhiễu các rãnh đạn tên lửa S- 75M bằng sóng radio được lắp trên các cụm máy bay tập kích chiến thuật đường không và máy bay yểm trợ, nghi binh và chi viện thuộc Không quân và Không quân hải quân Mỹ;

– Các loại nhiễu thụ động (dây băng gây nhiễu lưỡng cực) được lắp đặt trên các máy bay chiến lược,  chiến thuật và các máy bay không quân hải quân.

Trong các đợt tấn công ồ ạt bằng máy bay ném bom chiến lược, các cụm không kích máy bay chiến thuật, đòn tấn công gây nhiễu được bắt đầu bằng các máy bay TCĐT.

Nguyên tắc tổ chức thực hiện như sau: Trước 15-20 phút bắt đầu tấn công, các máy bay tác chiến điện tử gây nhiễu chủ động (Không quân  – ЕВ-66, Không quân Hải quân – ЕА-6В và ЕКА-ЗВ), tiếp cận vùng trời Vịnh Bắc Bộ và Lào và bắt đầu gây nhiễu chiến thuật, 10-16 phút sau cuộc không kích, các máy bay TCĐT dừng phát xung radio gây nhiễu.

Vùng TCĐT của máy bay EB – 66 thông thường nằm trên hướng bay không kích của máy bay B- 52 vào mục tiêu. Các máy bay TCĐT bay theo 1 quỹ đạo chiến đấu trên độ cao từ 6 – 7 km mỗi tốp thường từ 2 – 3 máy bay. Trên hướng Thái Lan – Lào các máy bay bay ở khoảng cách đến biên giới Việt Nam từ 60 – 80 km trên vùng trời Sầm Nưa; từ hướng căn cứ Guam – Vịnh Bắc Bộ – 50 – 60 km cách bờ biển.

Mỗi tốp máy bay TCĐT Mỹ được bảo vệ và che chắn bởi một biên đội máy bay tiêm kích (1 – 2 chiếc). Tần số phát sóng radio gây nhiễu của EB – 66 nằm trong dải tần tử 40 – 3500 MHz. Các máy bay chiến thuật như F -4, F -105 trong đội hình chi viện và yểm trợ cho máy bay B-52 cũng được trang bị các bộ khí tài gây nhiễu chủ động.

Các máy bay này được lắp đặt 4 container gây nhiễu chủ động ALQ-87 hoặc  ALQ-101, gây nhiễu radar trong một hoặc hai chế độ. Ở chế độ chế áp sóng radar SNR tìm kiếm, phát hiện mục tiêu và dẫn đường đạn trên tần số 40-50 MHz của các đài radar tên lửa, pháo phòng không và radar trinh sát mục tiêu tầm xa. Khi máy bay không bị chiếu xạ bằng radar (thoát khỏi vùng theo dõi) của radar.

Chế độ thứ hai là chế độ phát xung radio ngăn chặn phát hiện và theo dõi của các radar tầm xa trên tần số bước sóng từ 200-300 МHz. Chế độ này được bật khi máy bay bay vào vùng chiến đấu của các đài radar phát hiện mục tiêu, không phụ thuộc vào tình huống bị chiếu xạ hay không. Hệ thống điều khiển các bộ khí tài gây nhiễu được tự động hóa hoặc phi công sẽ điều khiển trên chế độ “bật – tắt” khi bước vào cuộc không kích.

 Sơ đồ gây nhiễu thụ động của máy bay B-52 và máy bay chiến thuật.
Sơ đồ gây nhiễu thụ động của máy bay B-52 và máy bay chiến thuật.

Phương pháp gây nhiễu chiến thuật của không quân Mỹ

Gây nhiễu thụ động trong các trường hợp không kích ồ ạt bằng máy bay chiến lược được thực hiện bởi chính các máy bay ném bom B-52 hoặc các cụm máy bay chiến thuật của Không quân hoặc không quân hải quân. Rải nhiễu thụ động lưỡng cực được tiến hành bởi các tốp máy bay trinh sát hỏa lực chiến thuật trong khoảng từ 10 – 15 phút trước khi máy bay ném bom chiến lược B-52 tiếp cận mục tiêu.

Khu vực triển khai gây nhiễu thụ động được lựa chọn theo hướng tiếp cận mục tiêu của máy bay ném bom, thời gian dự kiến các máy bay ném bom sẽ bay vào vùng hỏa lực của tên lửa hoặc pháo phòng không và độ cao gây nhiễu phụ thuộc vào độ cao quỹ đạo bay của máy bay B-52.

Thông thường, các tốp máy bay F-4D và F-4E sẽ gây nhiễu ở khoảng cách từ 40 – 50 km đến mục tiêu không kích dọc theo đường bay của máy bay ném bom và gây nhiễu dày đặc ở khu vực mục tiêu. Một phi đội từ 4 – 8 máy bay sẽ tạo một hành lang nhiễu dày đặc khoảng 30 km và có chiều rộng từ 4 – 6 km.

Các máy bay gây nhiễu bay theo tốp 4 chiếc, 2 tốp bay 8 chiếc dàn hàng ngang với khoảng cách từ 600 – 800 m ở độ cao 6 – 7 km. Thời gian phóng các thùng nhiễu giãn cách từ 3 – 5 giây. Khi rơi khỏi máy bay, phút chốc các thùng nhiễu sẽ bị kích nổ tự động, các bó nhiễu được tung dày đặc trong không gian.

Trong khoảng từ 4 – 5 giây, các bó nhiễu thụ động dưới tác dụng của các dòng không khí, tạo ra trên màn hình các loại radar tín hiệu tương tự như tín hiệu bắt được từ mục tiêu. Khi máy bay ném bom B-52 bay đến khu vực gây nhiễu, trên màn hình radar hình thành các sọc tín hiệu nhiễu dày đặc, gây khó khăn cho việc tìm kiếm, phát hiện mục tiêu và xác định tình huống không tập.

Tên lửa chống radar Shrike

Để tăng cường khả năng chế áp điện tử, không quân Mỹ đã thành lập các đơn vị không chiến với radar, mỗi phi đội không kích radar được biên chế từ 4 – 6 máy bay chiến thuật hoặc không quân hải quân (F-105G và F-105D, có thể là F-4C, А-4, А-6А, А-7Е và F-8).

Tập kích các đài radar được thực hiện bằng các tên lửa điều khiển tự dẫn bằng sóng radar tên lửa như AGM-45 ” “Shrike” và  AGM-78 ” Standard ARM”. Các loại tên lửa chống radar được sử dụng để chống radar điều khiển hỏa lực của tên lửa S-75M Dvina, radar điều khiển hỏa lực SON – 9 và các đài radar trinh sát P-35, PRB – 11.

   Sơ đồ tấn công radars bằng tên lửa chống radars Shrike
Sơ đồ tấn công radar bằng tên lửa chống radar Shrike

Phương thức tác chiến tấn công các đài radar tên lửa như sau. Các máy bay mang tên lửa chống radar bay ở khoảng cách từ 15 đến 20 km cách khu vực tấn công của B-52 trên độ cao trung bình, các phi công có nhiệm vụ công kích radar đều là những phi công lão luyện trong điều khiển tên lửa chống radar và có kỹ năng cơ động tránh tên lửa tốt.

Khi khí tài trinh sát phát hiện có chiếu xạ radar, thông tin đường truyền tải vào đầu dẫn tên lửa, tên lửa được phóng chậm nhất là sau 10 – 15 giây khi bắt được tín hiệu khóa sóng radar của đài phát. Các máy bay chống radar chỉ có thể phóng tên lửa ở chế độ bay ổn định trên mặt phẳng ngang, độ cao bay là 2 – 4 km. Các trạng thái phóng tên lửa khác không được áp dụng.

Tên lửa Shrike được phóng từ khoảng cách tính đến đài radar là từ 15 – 35 km với mục đích sao cho các trắc thủ tên lửa phòng không khó phát hiện được tên lửa Shrike tấn công.

Tên lửa Shrike giai đoạn này không có hiệu quả tác chiến cao khi nhiều đài phát xung radar cùng hoạt động trong bán cầu đầu thu phía trước của tên lửa, đồng thời hoàn toàn mất phương hướng khi tin hiệu radars bị ngắt, chính vì vậy, hiệu quả tác chiến của Shrike không cao, trong suốt chiến dịch Linebacker II chỉ có 1 đài radar điều khiển tên lửa và hai radar đo độ cao PRV – 11 bị đánh trúng.

Trong chiến dịch Linebacker II, tin tưởng vào khả năng chế áp điện tử của các phương tiện tham gia tác chiến, quân đội Mỹ đã điều động một số lượng khổng lồ các phương tiên bay tham gia cuộc không kích có tính chất quyết định cuộc chiến tranh này.

Trên vùng trời Hà Nội và Hải Phòng, Mỹ điều động 1800 lần xuất kích máy bay chiến đấu, trong đó có 390  máy bay В-52, gần 1200 máy bay chiến thuật và máy bay thuộc Không quân hải quân, 70 máy bay cường kích tầm thấp F-111A và 150 máy bay trinh sát điện tử quang ảnh  SR-71, 147J, RF-4C и RA-5C.

Chống tác chiến điện tử

Trước khi bắt đầu chiến dịch Linebacker II, trong các trận chiến đấu chống B-52, lực lượng phòng không Việt Nam đã phát hiện ra dải tần số và cường độ của loại nhiễu này.

Từ các phát hiện trên, đã hình thành tập tài liệu “Cách đánh B-52” các chuyên gia Liên Xô (cũ) và các kỹ sư quân sự Việt Nam đã khắc phục bằng phương pháp “át nhiễu”, nâng công suất sóng hồi xung của đạn và sóng điều kiển đạn lên gấp ba lần, đủ sức vượt qua cường độ nhiễu không chỉ của loại ALQ-71 mà còn cả các loại máy gây nhiễu cùng tính năng có công suất lớn hơn như ALQ-101, ALQ-107.

Từ năm 1968 đến năm 1973, các loại máy gây nhiễu rãnh đạn kiểu ALQ-x của không lực Hoa Kỳ trở nên vô hiệu đối với S-75 Dvina.

Những thay đổi được ghi nhận trên tổ hợp SAM-2 là việc các nhà khoa học Việt Nam phối hợp với chuyên gia Xô viết thay đổi tần số điều khiển rãnh đạn giúp đạn tên lửa khó bị gây nhiễu bởi các thiết bị đối kháng điện tử chủ động và thụ động (trong giai đoạn 1965-1972, chuyên gia ta phối hợp với kỹ sư Liên Xô đã 5 lần thay đổi tần số rãnh đạn).

Phương pháp bắn ba điểm – sáng tạo sử dụng vượt tính năng khí tài của người Việt Nam

Thông qua thực tế chiến đấu, Bộ đội Tên lửa Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học kinh nghiệm để đối phó với màn nhiễu của không quân quân Mỹ và phương pháp vạch nhiễu tìm thù, lấy điểm yếu của địch làm lợi thế của ta.

Giai đoạn đầu của chiến dịch không kích, các đơn vị trắc thủ tên lửa hầu như không nhận biết được mục tiêu do các loại nhiễu dày đặc đã hoàn toàn ảnh hưởng đến khả năng quan sát chế độ thụ động của radar tên lửa (Radar cảnh giới kiêm dẫn đường P-35 Saturn, P-12 “Spoon Rest”, đài radar cảnh báo sớm dải sóng VHF, tầm hoạt động 200 kilômét,  P-15 “Flat Face C” radar cảnh giới và bắt mục tiêu, chống mục tiêu bay thấp băng C, công suất 380 kW, tầm hoạt động 250 km/155 dặm).

PRV-11 “Side Net” radar đo độ cao mục tiêu). Đồng thời, các trắc thủ tên lửa do nguy cơ tấn công của tên lửa chống tên lửa phòng không, đã không thể sử dụng sóng radar phát chủ động để tìm kiếm mục tiêu.

Qua tổng kết kinh nghiệm đánh trận đầu tiên, lực lượng phòng không Việt Nam đã phát hiện một vấn đề: bản thân máy bay B-52 cũng tự gây nhiễu chủ động, từ đặc điểm này có thể xác định được các tốp máy bay B-52 bay vào, từ đó quyết định phương pháp tấn công mục tiêu:

Nhiễu chủ động của В-52, chế áp trên dải tần số đài điều khiển SNRA -75M “Fan Song” có thể được phát hiện ở khoảng cách 180 – 200 km. Trên khoảng cách 60 – 70 km sĩ quan điều khiển có thể nhìn thấy 1 dải nhiễu rất lớn và các dải nhiễu nhỏ hơn, điều chỉnh độ nét, các trắc thủ giảm dải nhiễu xuống còn 3 – 3,5 độ.

Trên khoảng cách 40 – 50 km, dải nhiễu mở rộng ra đến 6 – 7độ. Trên mặt phẳng góc phương vị dải nhiễu được chia ra thành 3 sọc sáng 3 – 3,5 độ, trên góc tà không chia, hoặc chia thành 2 sọc.

Những đặc điểm của nhiễu B-52:

1.Khi các máy bay B-52 vào không kích, cùng lúc địch gây nhiễu mạnh trên toàn bộ các dải tần số hoạt động của các trang thiết bị điện tử radio và cả sóng cực ngắn.

2. Dải nhiễu của các tốp máy bay B-52 ổn định về độ rộng, độ sáng và cường độ công suất hơn so với các máy bay chiến thuật. Do máy bay B-52 bày theo đường bay thẳng, có độ cao ổn định (9-12km) và tốc độ ổn định (220 – 230 m/s).

3. Quỹ đạo đường bay của máy bay B052 rất ổn định, tốc độ bẻ góc của B-52 theo góc phương vị  khoảng 0,2 độ/s trong khoảng cách từ 30 – 100 km, do đó tốc độ thay đổi tần số dải nhiễu cũng rất ổn định.

4. Đuôi của dải nhiễu В-52 nếu so sánh với máy bay chiến thuật, để lại dấu vết lâu hơn.

5. Công suất của các đài phát xung gây nhiễu của В-52 rất mạnh, ảnh hưởng trực tiếp đến tín hiệu điều khiển tên lửa (nhiễu rãnh đạn). Theo các thông số của lực lượng phòng không, máy phát gây nhiễu ALT-28 tạo dải nhiễu trên mặt phẳng thẳng đứng là 20 – 25 độ, chiều rộng của dải nhiễu trên mặt phẳng ngang là 15 độ. Hiệu suất cao nhất của dải nhiễu nằm ở khoảng cách từ 24 – 25 km với độ cao máy bay là 10 – 12 km.

Từ những nhận định theo kinh nghiệm đã nếu, kíp trắc thủ xe điều khiển đã lựa chon phương thức bắn kết hợp 3 điểm TT và phương pháp bắn vượt nửa góc PC. Trong phương án bắn phối hợp này, sĩ quan điều khiển sau khi đã xác định dải nhiễu B-52 chuyển thông tin mục tiêu cho kíp trắc thủ radar. Phương pháp phóng tên lửa diệt mục tiêu B-52 được thực hiện như sau:

Kíp trắc thủ sau khi xác định mục tiêu tốp B-52 đang hướng về khu vực ném bom cần tiêu diệt. Trên khoảng cách 40 – 45 km tiến hành 1 lần phóng giả (nghi binh) nhằm xác định chính xác mục tiêu cần tiêu diệt và loại trừ nguy cơ Shrike. Sau đó tắt phát sóng chủ động của SNR và bám mục tiêu thụ động (hướng vào tâm điểm của vùng nhiễu được nhận định là B-52.

Bật phát sóng chủ động khi mục tiêu đã vào vùng phóng tên lửa 28 – 34 km trong khoảng 5 – 7 giây nhằm xác định tình huống và điều kiện nhiễu, đặc biệt đánh giá sự hiển diện của nhiễu thụ động trong khu vực tên lửa gặp mục tiêu.

Tên lửa được phóng lên và điều khiển theo phương pháp 3 điểm (TT) trong điều kiện SNR tắt phát chủ động nhằm đảm bảo không bị công kích bởi tên lửa Shrike. Bật phát chủ động trong khoảng thời gian từ 15 – 18 giây trước khi tên lửa gặp mục tiêu cho phép trong điều kiện phát hiện được tín hiệu mục tiêu trên nền nhiễu, có thể chuyển sang chế độ dẫn PS (vượt nửa góc) đồng thời bắt mục tiêu ở chế độ tự động, chế độ điều khiển tay quay và hỗn hợp (phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng xác định tín hiệu mục tiêu trong nhiễu xạ mạnh.

Về căn bản, phương pháp bắn 3 điểm là hình thức cải tiến của phương thức bắn Vượt nửa góc với việc bỏ chế độ dẫn tự động sang dẫn đạn tên lửa bằng tay bám theo nguồn nhiễu do trắc thủ trực tiếp thực hiện. Khi tới cự ly tiêu chuẩn, đạn tên lửa sẽ đươc kích hoạt đầu tự dẫn để tìm kiếm, khóa và tiêu diệt mục tiêu.

Điểm khó của phương thức này là việc vạch nhiễu, xác định đúng đâu là nguồn nhiễu của máy bay B-52 và đâu là nhiễu do máy bay chiến thuật tạo ra. Sau khi tên lửa đã chạm mục tiêu và phát nổ. Trắc thủ radar tắt nguồn phát và quay radar sang hướng khác, loại trừ tên lửa Shrike.

Một cải tiến mới cũng được đưa vào cho tên lửa nhằm chống nhiễu, đo là khởi động hệ thống tự dẫn và khởi động hệ thống kích nổ phi tiếp xúc trên khoảng cách ngắn hơn so vơi trước đây. Chế độ tự dẫn được khởi động hiệu quả nhất ở khoảng cách đến mục tiêu Rs là 8 – 15 km.

Do dải nhiễu của B-52 kéo dài đến 25 km và dày đặc ở khu vực mục tiêu, do đó, nếu chế độ tự dẫn được bật muộn hơn 8 km, hiệu suất theo bám mục tiêu bị giảm đáng kể, nếu khoảng cách bật chế độ tự dẫn tên lửa lớn hơn 15 km, tên lửa sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiễu thụ động, kết quả tiêu diệt mục tiêu bằng 0. Với chế độ tự dẫn lớn hơn hoặc bằng 8 km.

Xác suất tiêu diệt là 0,25. Đồng thời cũng có sự thay đổi trong chế độ khởi động bộ phận kích nổ. Bộ phận kích nổ được khởi động trong khoảng cách từ 5 – 7 km đến mục tiêu. Do nhiễu xạ thụ động thường dày đặc ở tầm cao 6 – 8 km. Nếu bộ phận kích nổ khởi động theo nguyên lý chế tạo là 11,5km, tên lửa sẽ bị kích nổ khi xuyên qua tầng nhiễu thụ động. Việc kích nổ muộn hơn cũng giảm tỷ lệ ảnh hưởng của nhiễu thụ động.

Trong chiến tranh đất đối không tại Việt Nam (1965-1972), do ưu thế gần như áp đảo của không quân Mỹ nên các đơn vị phòng không Việt Nam phải thực hiện chiến thuật cơ động và nghi binh cho tên lửa phòng không. Theo điều lệnh tác chiến của lực lượng phòng không Liên Xô (cũ), mỗi tiểu đoàn S-75 Dvina (kể cả loại S-75B Volkhov) đều cần từ 1 đến 2 trận địa dự bị trong phạm vi bán kính cơ động 5 đến 10 km.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, mỗi tiểu đoàn tên lửa phòng khống phải có  từ 4 đến 6 trận địa dự bị ở phạm vi cơ động có thể lên đến hàng trăm km trên nhiều loại địa hình khác nhau. Sau mỗi trận đánh, toàn bộ khí tài được tháo dỡ, thu gom trong vòng chưa đến 1 giờ và được di chuyển ngay đến trận địa mới.

Tại trận địa cũ, dân quân tự vệ  dựng lại  bộ khí tài giả làm bằng tre và cót, được sơn phết giống như thật. Do Shrike có hiệu quả thấp, máy bay cường kích chi viện hỏa lực đã tập kích dữ dội  vào các trận địa không người. Do đó, mặc dù có số lượng không lớn nhưng hầu hết các đơn vị của tên lửa phòng không Việt Nam vẫn tránh được những đòn đánh hủy diệt của không quân Hải quân Mỹ, bảo toàn được lực lượng.

Trận không chiến 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không”, Lực lượng tên lửa phòng không đã phối hợp sử dụng đài radar K8-60 của pháo phòng không 57mm quét tập trung để xác định chính xác các tốp B-52 (không quân Mỹ không để ý tới tần số phát của đài radar dạng này với chủ quan rằng chúng không có khả năng gây hại tới B-52) cung cấp thông tin cho đài radar dẫn bắn Fan Song E (radar điều khiển hỏa lực của tổ hợp SAM-2) để dẫn bắn trúng vào các tốp B-52 của địch khi tần số radar của tổ hợp tên lửa SA -75 bị gây nhiễu nặng.

Ngoài ra, đài radar Fan Song được trang bị hệ thống kính tiềm vọng TZK- tổ hợp PA-00  cung cấp thông tin đồng bộ với hệ thống quan sát bằng ra-đa (phương thức so kim) cho phép SA-75 khai hỏa vào mục tiêu trong điều kiện nhiễu nặng, không thể xác định được mục tiêu.

Theo lời nhiều trắc thủ đã trực tiếp chiến đấu đánh B-52 trong chiến dịch 12 ngày đêm, tổ hợp PA-00 với tầm quan sát chỉ 12km, nhưng do không thể bị gây nhiễu (quan sát trực tiếp bằng mắt) đã đóng góp rất lớn vào việc tiêu diệt các máy bay ném bom chiến lược B-52 của Mỹ.

Hai ngày đầu tiên, lực lượng tên lửa phòng không Việt Nam chống lại 5 đợt tấn công ồ ạt của máy bay ném bom chiến lược. Trong hai đêm đó, hiệu quả tác chiến tương đối thấp, chỉ đạt 0,09, trong 4 máy bay B – 52 bị bắn rơi, trung bình tiêu hao là 19 tên lửa. Nhưng cũng nhờ những kinh nghiệm của 2 đêm tác chiến đầu tiên, lực lượng phòng không Việt Nam đã nâng cao hiệu suất phóng tên lửa lên đến 0,27, tỷ lệ tên lửa trên một máy bay B-52 rơi là 6,6.

Một đơn vị bị trúng tên lửa Shrike do trắc thủ đã phạm sai lầm khi sử dụng chế độ phát chủ động của radar SNR. Do quá bám mục tiêu, đã chiếu xạ B-52 đến 80 giây với cường độ phát xung rất cao. Thực hiện yêu cầu chiến thuật chống Shrike, chỉ bật phát chủ động trong 18 – 20 giây nên các đơn vị tên lửa còn lại, hầu hết Shrike đều rơi cách trận địa từ 2-3 km.

Thống kê cho thấy, hiệu quả tác chiến cao trong môi trường nhiễu tổng hợp của đối phương rất mạnh cùng với những đợt tấn công khốc liệt các trận địa tên lửa của máy bay chiến thuật Mỹ đã khẳng định, tính năng kỹ chiến thuật của tổ hợp SA-75M Dvina rất tốt, các kíp trắc thủ tên lửa đã được huấn luyện thuần thục khai thác sử dụng triệt để mọi khả năng của radars, tên lửa đồng thời có kỹ năng tác chiến hoàn hảo, bình tĩnh dũng cảm và sáng tạo trong từng lần phóng tên lửa.

Một đóng góp to lớn trong chiến dịch chống không kích đường không trong điều kiện tác chiến điện tử rất mạnh là khả năng cơ động và đảm bảo cơ sở vật chất, đạn tên lửa kịp thời trong trận đánh của các đơn vị hậu cần – kỹ thuật binh chủng.

Các lực lượng tên lửa bảo vệ Hà Nội đã chặn đứng 25 đợt tấn công ồ ạt của máy bay ném bom chiến lược và máy bay chiến thuật của đối phương. Tiến hành phóng đạn 181. Kết quả đã tiêu diệt 54 máy bay, trong đó có 31 В-52, 13 F-4, 10 А-6 và А-7.

Với máy bay ném bom В-52 đã phóng 135 lần (74% tổng số tên lửa), tiêu hao 244 tên lửa. Hiệu suất chiến đấu đạt 0,23. Tiêu hao để diệt 1 máy bay B-52 là 7,9 tên lửa.

Có 46 lần phóng tên lửa tấn công tiêu diệt máy bay chiến đấu cấp chiến thuật và không quân hải quân (26% tổng số các lần phóng), tiêu hao 77 tên lửa , bắn rơi 23 máy bay. Hiệu quả tác chiến đạt  0,5 với tỷ lệ tiêu hao 3,3 tên lửa trên 1 máy bay.

Chiến dịch Linebacker II là một chiến dịch lớn chưa từng có trong các chiến dịch TCĐT mà quân đội Mỹ và các nước trên thế giới tiến hành. Mật độ trang thiết bị tác chiến điện tử cũng lớn nhất từ trước đến tận ngày nay. Hầu hết các lần phòng đạn đều phải tiến hành trong điều kiện nhiễu tổng hợp và dày đặc (chiếm 76%).

Tổng kết chung hiệu quả tác chiến trong điều kiện gây nhiễu chế áp mật độ dày đặc là 0,47. Đây là hiệu quả tác chiến cao nhất trong sử dụng tên lửa phòng không đánh trả các cuộc tập kích đường không. Một cuộc tập kích số lượng lớn đã phải hủy bỏ nửa chừng do ngay từ khi bắt đầu trận đánh, số lượng máy bay đã bị tiêu diệt quá lớn.

Hiệu suất tác chiến cao đối với máy bay cấp chiến thuật do điều kiện tác chiến tốt hơn, máy bay địch bay ở tầm thấp hơn tầm nhiễu thụ động, các đài gây nhiễu trên máy bay không nhiều, máy bay cơ động nhanh, phức tạp nên nhiễu chủ động không che chắn được mục tiêu. Trong 46 lần phóng tên lửa có tới 18 lần phóng tiêu diệt máy bay ở độ cao thấp (39%) dưới 1 km.

Chiến dịch “12 ngày đêm” trên bầu trời Hà Nội, nhìn từ góc độ kỹ chiến thuật có thể thấy: vị thế của tác chiến điện tử nói chung, chế áp điện tử và chống chế áp điện tử nói riêng đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chiến tranh hiện đại.

Ngay từ thời điểm bắt đầu, các phi công B-52 Mỹ được thông báo cuộc không kích “như một cuộc dạo chơi trên bầu trời đêm Hà Nội” do sự quá tin của lực lượng Không quân Mỹ về năng lực TCĐT cũng như sự hiểu biết về hệ thống phòng không đối phương.

Chủ quan đã dẫn đến một kết cục thảm bại bất ngờ. Nhưng cũng có thể khẳng định rằng, nếu TCĐT của không quân Mỹ mà yếu hơn thì thảm họa không thể đoán trước được. Từ những bài học về chế áp điện tử cho thấy, TCĐT không đơn thuần là cuộc đối đầu giữa công nghệ và công nghệ, đây là sự đối đầu giữa công nghệ hiện đại và ý chí, sự thông minh sáng tạo của con người.

Bằng sự sáng tạo của mình, lực lượng Phòng không nói chung và phòng không tên lửa nói riêng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Chiến tranh hiện đại là cuộc chiến tranh điện tử công nghệ cao, ai không làm chủ được trong lĩnh vực công nghệ này, người đó chắc chắn thất bại. Năng lực TCĐT và phương tiện, khí tài chiến đấu phải được nâng cấp, hiện đại hóa, phát triển toàn diện trong các quân binh chủng.

Số lượng và tính năng kỹ chiến thuật phải có đủ khả năng chống trả các cuộc tấn công điện tử ồ ạt quy mô lớn trong không gian điện từ. Điều đó đòi hỏi tăng cường rèn luyện lực lượng, nắm chắc và sử dụng thuần thục khí tài TCĐT hiện có trong tình huống điện từ trường phức tạp nhất, phải có được những hệ thống sản phẩm “nội địa” (tự thiết kế – sản xuất) nhằm đảm tính bảo mật cao nhất, đồng thời có thể phát huy thế mạnh ở cách đánh sở trường và kinh nghiệm chiến đấu để bảo vệ vững chắc Thành đồng Tổ Quốc.

Trịnh Thái Bằng (Nguồn: Tổng kết các hoạt động tác chiến Lực lượng Phòng Không – Không quân Việt Nam năm 1972. Nhà xuất bản Quân đội Xô Viết. Tác giả: Thiếu tướng pháo binh Hyupenena A.I (chủ nhiệm), Thiếu tướng không quân Bednenko D.K, Đại tá Varyukhina S.A, thạc sĩ khoa học kỹ thuật quân sự, Đại tá-Kỹ sư Manukhina V.G, thạc sĩ khoa học quân sự, Đại tá Fomin D . I, Đại tá Remini A.K).

Nguồn: Báo Đất Việt

Việt Nam thắng chiến tranh điện tử và tác chiến điện tử

Sự xuất hiện trong lực lượng vũ trang và hạm đội các trang thiết bị điện tử (trang thiết bị thông tin liên lác, các đài radar, các thiết bị dẫn đường, định vị, trang thiết bị điều khiển hỏa lực và các phương tiện tác chiến khác…), các hoạt động và khả năng của trinh sát, tình báo điện tử trong mọi lĩnh vực cũng như các hoạt động đánh lừa, gây nhiễu loạn hoặc chế áp ngày càng được tăng cường cả về chiều rộng và chiều sâu. Các hành động công kích hay phòng ngự trong lĩnh vực điện tử có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiệu quả tác chiến trên chiến trường.

Chiến thắng công nghệ bằng sức mạnh trí tuệ Việt Nam

Thời điểm ban đầu, hệ thống sensors, các máy bay trinh sát tác chiến điện tử và các máy bay tác chiến điện tử đã gây rất nhiều khó khăn và tổn thất nặng cho các đơn vị vận tải.

Lực lượng công binh của Binh đoàn Trường Sơn đã đáp trả bằng mọi biện pháp từ thô sơ đến hiện đại, các giải pháp thông thường là thay đổi các cung đường, các binh trạm vận tải, thành lập các tuyến đường ngắn và nhiều nhánh đường tránh cho xe cơ động khi gặp địch đánh phá, thành lập các tuyến đường kín chạy ban ngày tránh sự dò tìm của các máy bay trinh sát hồng ngoại ban đêm của địch.

Đường kín trong các tuyến đường Trường Sơn
Đường kín trong các tuyến đường Trường Sơn

Các biện pháp chống chiến tranh điện tử thường được sử dụng là dùng các băng casset thu âm tiếng động cơ xe máy để phát gọi máy bay địch đến đánh phá những tuyến đường nghi binh, sử dụng các xe cháy hỏng có thể nổ máy được để nghi binh hoặc dùng một số xe nghi binh chạy đi chạy lại nhiều lần trên các tuyến đường tự do đánh phá.

Giải pháp được cho là tối ưu nhất nhằm chống lại lực lượng không quân địch, đặc biệt là máy bay AC – 130 là lực lượng phòng không và truy quét thám báo địch. Năm 1968, lực lượng này chỉ gồm các vũ khí 37-mm và 57-mm có radar điều khiển. Năm sau đã xuất hiện pháo phòng không  85-mm và 100-mm, đến năm 1972, đường Trường Sơn đã được bảo vệ bởi hơn 1.500 khẩu súng phòng không.

Ngày 29/3/1972, máy bay AC-130 đã bị bắn rơi trong một phi vụ ban đêm bởi tên lửa đất đối không vác vai SAM-7 ở gần Tchepone. tháng 8 năm 1972, chiếc AC-130 thứ hai đã bị bắn rơi bằng tên lửa SA-2. Sau vụ này, AC-130 phải lui về hoạt động ở phía Nam đường 9. Nỗ lực của Mỹ dùng máy bay AC-130 và Không quân Hải quân để đánh phá và chặn xe đã bị vô hiệu hóa.

Tác chiến điện tử trên chiến trường Miền Nam Việt Nam

Trên chiến trường Miền Nam Việt Nam, quân đội Mỹ cũng triệt để sử dụng các trang thiết bị điện tử để chống lại các cuộc tấn công của các lực lượng Quân Giải phóng. Các thiết bị ảnh nhiệt quan sát ban đêm được lắp trên các máy bay tuần tiễu OV-1 ” Mohawk “, các máy bay này tiến hành tuần tiễu dọc các dòng sông vùng đồng bằng sông Cửu Long, sông Mê công thông thường là một cặp đôi với máy bay trực thăng chiến đấu AH-1G “Huey Cobra ” hoặc máy bay trực thăng UH -1A “Iroquois”được trang bị rockets và súng máy.

 Máy bay trực thăng hỏa lực AH-1G
Máy bay trực thăng hỏa lực AH-1G “Huey Cobra ” trên đồng bằng sông Cửu Long

Máy bay trinh sát phát hiện những chiếc ghe tam bản, những chiếc thuyền vận tải trên sông và gọi máy bay chiến đấu đến tấn công, những cặp đôi trinh sát – hỏa lực này đã gây rất nhiều khó khăn cho những hoạt động vượt sông hoặc vận tải ban đêm của những chiến sĩ du kích. Ngoài ra, các máy bay UH-1A còn được lắp đặt các ổ treo thiết bị quang hồng ngoại thụ động AN/ AAQ-5.

Trên các máy bay “Huey Cobra” bắt đầu thử nghiệm lắp đặt các bộ khí tài kính ngắm hồng ngoại và ảnh nhiệt, một vài chiếc “Huey Cobra” đã thực hiện nhiệm vụ bằng các thiết bị này.

Việc sử dụng các thiết bị quang học điện tử trên máy bay trực thăng không được sử dụng rộng rãi như máy bay cánh quạt và phản lực một phần do khả năng dễ bị tiêu diệt bởi súng bộ binh, nhưng việc lắp đặt thử nghiệm các hệ thống trang thiết bị AN/AAQ-5, CONFICS và ATAFCS đã trở thành cơ sở căn bản cho hệ thống thiết bị TADS/ PNVS trên máy bay АН-64А “Apache” sau này, các máy bay trực thăng ở miền Nam Việt Nam còn được lắp đặt các thiết bị thu âm và thiết bị phát hiện người trong các khu vườn hoang, cánh đồng hoặc vùng lau sậy ХМ-3 “People Sniyffer”.

 Máy bay UH-1 mang thiết bị nhìn đêm AN/ AAQ-5
Máy bay UH-1 mang thiết bị nhìn đêm AN/ AAQ-5

Quân đội Mỹ cũng chế tạo các thiết bị sensors dành cho bộ binh trong các khu vực đồn trú. Do tính chất khốc liệt và thường xuyên bị tấn công, phục kích cả ngày lẫn đêm, ngoài những hệ thống hàng rào vật cản, các khu căn cứ Mỹ còn được trang bị các thiết bị mini SID, micro SID DSID, (GSID hay Ground Seismic Intrusion Detector, PSID hay Patrol Seismic Intrusion Detector và HANDSID).

Một hệ thống PSID có 4 cảm biến địa chấn và nối liền với thiết bị truyền thông tin hữu tuyến, những thiết bị này hoạt động theo nguyên tắc cổ xưa (vướng và kích hoạt) tuyền tải thông tin về thiết bị điều khiển, tín hiệu có thể truyền xa đến 500 m. Nhờ những hệ thống này đi kèm với các thiết bị kính nhìn đêm, radar mặt đất mà quân đội Mỹ đã giảm nhiều các tổn thất ban đêm.

Một sĩ quan Mỹ đã nhận xét:“PSID đơn giản, có độ tin cậy cao và ít bị hỏng hóc, đồng thời lại có kích thước và khối lượng nhỏ gọn, tôi muốn có 20 bộ khí tài như vậy trong một trung đội thay vì 20 bộ trong một tiểu đoàn”.

 PSID cho các đơn vị tuần thám và phục kích những năm 1960- x
PSID cho các đơn vị tuần thám và phục kích những năm 1960- x

 

 Thiết bị phát hiện người ẩn nấp Е-63 “people sniffer”
Thiết bị phát hiện người ẩn nấp Е-63 “people sniffer”

 

   Thiết bị tăng độ phân giải ánh sáng mờ AN/TVS-2 gắn trên súng máy 12,7mm
Thiết bị tăng độ phân giải ánh sáng mờ AN/TVS-2 gắn trên súng máy 12,7mm

 

 Thiết bị tăng độ phân giải ánh sáng mờ  AN/PVS-2 gắn trên súng trường tự động.
Thiết bị tăng độ phân giải ánh sáng mờ AN/PVS-2 gắn trên súng trường tự động.

Đập tan huyền thoại công nghệ cao quân đội Mỹ

Để chống phá các hệ thống phòng ngự điện tử, các chiến sĩ giải phóng quân đã thực nghiệm và đúc kết các kinh nghiệm tác chiến nhằm vô hiệu hóa khí tài hiện đại.

Phương pháp đơn giản nhất là nghi binh, những đòn tấn công nghi binh thường xuyên liên tục đã làm cho lực lượng địch thiếu đi sự tin tưởng vảo trang thiết bị và tổn thất về vũ khí, đạn và cơ sở vật chất đi cùng, từ đó sử dụng lực lượng đặc công, biệt động luồn sâu, đánh địch ngay trong căn cứ.

Phương pháp thứ hai rất hiệu quả là phục kích đánh địch khi đối phương tiến hành các chiến dịch hành quân hoặc truy quét tìm và diệt. Khi đó, quân Mỹ không có khả năng sử dụng các phương tiện mặt đất, mà chỉ có thể sử dụng các phương tiện trinh sát đường không, dễ bị bắn hạ bởi vũ khí bộ binh.

   Săn máy bay trực thằng của Trung đoàn Bình Giã
Săn máy bay trực thằng của Trung đoàn Bình Giã

Phương pháp thứ ba: gây căng thẳng tột cùng cho địch là công kích hỏa lực tầm xa, bằng các loại vũ khí từ tự chế đến hiện đại như ĐKB (tên lửa BM -21 mang vác). Phương pháp thứ tư: đó là phong trào săn máy bay địch bằng vũ khí có trong tay, từ bom mìn tự chế đến đến hỏa khí bộ binh.

Pháo phản lực ĐKB (BM-21) bắn ứng dụng
Pháo phản lực ĐKB (BM-21) bắn ứng dụng

Chiến tranh điện tử phong tỏa trên Biển Đông

Cuộc chiến tranh điện tử còn được triển khai rộng rãi trên mặt biển và các vùng nước quan trọng như hải cảng, căn cứ quân sự ven sông.

Sơ đồ phong tỏa đường biển của Mỹ ở Việt Nam
Sơ đồ phong tỏa đường biển của Mỹ ở Việt Nam

Để ngăn chăn các chuyến hàng vận tải biển của Đoàn tàu Không số 128. Quân đội Mỹ đã triển khai một hệ thống trang thiết bị điện tử rộng rãi trên mặt nước Vịnh Bắc Bộ, dọc theo ven biển miền Nam Việt Nam, liên tục hoạt động là 20 đài radar quan sát mặt biển và theo dõi mọi tàu thuyền, các máy bay tuần biển như OP-2 Hecquyn, P-3 Orion tiến hành các hoạt động tuần tiễu ven biển 24/24 giờ trong ngày, gặp các tàu thuyền có dấu hiệu nghi ngờ,

các trạm radar và các máy bay trinh sát tuần biển sẽ lập tức xác định tọa độ, chụp ành và tiến hành theo dõi ngay từ vùng nước quốc tế, khi các tàu đi vào vùng phong tỏa, các giang đoàn của hải quân Sài Gòn và các chiến hạm của Hạm đội 7 lập tức bao vây, tiếp cận lục soát hoặc trong các trường hợp có biểu hiện lạ, sử dụng hỏa lực tấn công tiêu diệt.

Trong các hải cảng quân sự, quân đội Mỹ sử dụng triệt để các thiết bị theo dõi chống đặc công nước, đó là các đài sonar chủ động, hệ thống lưới chắn cạm bẫy cùng với các thiết bị báo động xâm nhập, các phao thủy âm.

Toàn bộ hệ thống được kết nối lại bằng hệ thống truyền tải thông tin hữu tuyến vào một trung tâm duy nhất nhằm chống xâm nhập sau sự kiện một tàu chở dầu 15000 bị lực lượng đặc công biệt động đánh chìm ở cảng Sài Gòn. Hải quân Mỹ cũng huấn luyện một đơn vị cá heo làm nhiệm vụ đeo sonar tuần thám dưới nước và phát hiện xâm nhập.

Một sĩ quan hải quân Mỹ đã nhận xét:”Cá heo rất thông minh, nó có khứa giác nhạy cảm và là một đài sonar tự nhiên tốt nhất, nó có thể bơi nhanh hoặc chậm tùy theo người điều khiển, với sonar gắn trên đầu, cá heo giúp cho lực lượng phòng vệ nhanh chóng phát hiện người nhái đột nhập….” đã có hàng trăm cá heo được huấn luyện cho mục đích này.

 Bản đồ hoàn động của lực lượng Hải quân và Không quân Hải quân Hạm đội 7 ở Việt Nam.
Bản đồ hoàn động của lực lượng Hải quân và Không quân Hải quân Hạm đội 7 ở Việt Nam.

Trong cuộc chiến tranh kéo dài từ năm 1964 – 1973 của quân đội Mỹ, TCĐT đã được áp dụng triệt để, trên mọi môi trường tác chiến, từ tác chiến trên không, trên đất liền và trên biển. Các phương tiện tác chiến được lắp đặt trong mọi phương tiện chiến đấu, từ máy bay cường kích phản lực, máy bay yểm trợ hỏa lực, trực thăng cho đến các phương tiện trên mặt đất.

Tuy chưa cấu thành một hệ thống tác chiến điện tử đồng bộ, nhưng những bài học kinh nghiệm trong ứng dụng các trang thiết bị TCĐT đã trở thành cơ sở căn bản để cấu thành hệ thống các phương tiện trinh sát điện tử hiện đại ngày nay.

Cuộc chiến đấu chống Mỹ giai đoạn 1964 – 1972 ở Miền Nam Việt Nam là cuộc đối đầu với một hệ thống công nghệ quân sự hiện đại và sức sáng tạo không ngừng của các chiến sĩ lực lượng vũ trang Miền Nam Việt Nam. Kết quả của chiến tranh đã rõ ràng, nhưng những bài học của nó vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn trong chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc.

Cũng cần phải khẳng định, dành được thắng lợi trong “Chiến tranh điện tử, đó là sự kết hợp giữa trí tuệ con người và khoa học công nghệ”. Trang thiết bị khí tài tác chiến càng hiện đại, càng đòi hỏi sức sáng táo và năng động trong ứng dụng công nghệ vào thực tế chiến trường.

Chiến tranh điện tử không chỉ có trong thời chiến, nó được thực hiện ngay trong thời bình và phát triển vô cùng mạnh mẽ. Để có thể đánh thắng kẻ thù trong Chiến tranh điện tử, cần có sự hiểu biết sâu sắc về TCĐT, phương tiện khí tài chiến đấu, sử dụng thành thạo trong thực tiễn, đồng thời phát triển công nghiệp điện tử quốc phòng, để có thể có được hệ thống khí tài tác chiến đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ Quốc.

Trịnh Thái Bằng (Trích nguồn: Báo cáo dự án Checo thuộc chương trình Igloo White (Project Checo Reports – 01.11.1971) Thiếu tướng Ernet C.Hardin – USAF. Đại tá Mike Deleon. USAF)

Nguồn: Báo Đất Việt

Bí mật dự án Popeye trong Chiến tranh Việt Nam

Dự án Popeye được tiến hành lúc bắt đầu mùa mưa, nhằm che giấu dư luận, làm như đó là một hiện tượng tự nhiên đặc trưng của thời tiết khu vực Đông Dương.

Trong Chiến tranh Việt Nam, bên cạnh bom đạn là những vũ khí sát thương trực tiếp, Mỹ còn sử dụng một vũ khí khác không kém phần nguy hiểm là “vũ khí thời tiết”.

Minh họa cơ chế hoạt động của việc gây mưa bằng hóa chất của Dự án Popeye trong chiến tranh Việt Nam.
Minh họa cơ chế hoạt động của việc gây mưa bằng hóa chất của Dự án Popeye trong chiến tranh Việt Nam.

Vũ khí thời tiết là phương thức tác động vào sự biến đổi của thời tiết để tạo ra những kiểu thời tiết gây bất lợi cho các hoạt động của đối phương thậm chí là phá hủy cơ sở hạ tầng, tiêu diệt hệ sinh thái trong khu vực mà nó được sử dụng.

Mượn bàn tay của thiên nhiên để tiêu diệt đối phương nên thời tiết được liệt kê vào một dạng vũ khí khi nó được sử dụng cho mục đích chiến tranh. Kỹ thuật tác động vào môi trường để phục vụ cho các mục đích quân sự được phát minh bởi một nhà toán học người Mỹ John von Neumann vào cuối những năm 1940.

Lúc đó ông Neumann nhận thấy rằng việc sử dụng kỹ thuật “gieo hạt vào đám mây” bằng tinh thể iốt bạc trộn lẫn với carbon dioxide có thể làm tăng sự ngưng tụ của hơi nước của các đám mây và gây mưa. Đỉnh điểm của công nghệ này được phát triển mạnh trong những năm chiến tranh lạnh và Việt Nam chính là nạn nhân đầu tiên của thứ vũ khí đáng sợ này.

Vào cuối năm 1965 khi những nỗ lực nhằm ngăn chặn tuyến chi viện chiến lược trên đường mòn Hồ Chí Minh của Mỹ không đem lại kết quả mong muốn họ đã áp dụng một chiến lược vô cùng thâm hiểm là sử dụng thời tiết như một thứ vũ khí nhằm làm tê liệt tuyến đường chiến lược này.

Họ đã ứng dụng kỹ thuật của Neumann với mục đích kéo dài và làm trầm trọng thêm mùa mưa trên đường mòn Hồ Chí Minh đặc biệt là ở khu vực đi qua Lào. Chương trình được đặt mật danh là Dự án Popeye.

Máy bay WC-130 được sử dụng cho nhiệm vụ rải hóa chất gây mưa vào các đám mây nhằm biến chúng thành một thứ vũ khí.
Máy bay WC-130 được sử dụng cho nhiệm vụ rải hóa chất gây mưa vào các đám mây nhằm biến chúng thành một thứ vũ khí.

Dự án Popeye được đề xuất bởi tham mưu trưởng liên quân Mỹ vào ngày 10/08/1966 và được Bộ tư lệnh hỗ trợ quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam COMUSMACV và Bộ tư lệnh Hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương CINCPAC đồng tình ủng hộ.

Lúc đó các nguồn tin tình báo của CIA cho biết miền Bắc đang gia tăng các hoạt động vận chuyển hàng hóa qua khu vực sông Sê Kong ở Nam Lào nhưng hoạt động tại đây đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi chất lượng đường sá rất kém. Thông tin này càng làm cho những “cái đầu ảo tưởng” của quân đội Mỹ tin rằng việc thay đổi thời tiết tại khu vực này sẽ làm phá sản hoàn toàn kế hoạch của Bắc Việt.

Để phục vụ cho Dự án này Mỹ đã sửa đổi một số chiếc WC-130 làm nhiệm vụ rải hóa chất gây mưa vào trong các đám mây. Vào đầu tháng 09/1966 thời điểm chuẩn bị bắt đầu mùa mưa ở miền Trung Việt Nam, Không quân Mỹ đã tiến hành khoảng 50 phi vụ thí điểm rải hóa chất gây mưa dọc theo các khu vực sông Sê Kong.

Dự án được tiến hành ngay trong thời điểm bắt đầu mùa mưa nhằm che giấu các nước trong khu vực, làm như đó là một hiện tượng tự nhiên đặc trưng của thời tiết khu vực Đông Dương và hoàn toàn không có sự can thiệp của Mỹ.

Mỹ đã thực hiện tới 2.600 phi vụ rải hóa chất gây mưa nhằm cản trở hoạt động thậm chí là làm tê liệt đường mòn Hồ Chí Minh.

Mỹ đã thực hiện tới 2.600 phi vụ rải hóa chất gây mưa với ảo tưởng có thể cản trở hoạt động thậm chí là làm tê liệt đường mòn Hồ Chí Minh.

Các thử nghiệm ban đầu cho thấy có đến 85% những đám mây được rải hóa chất đã gây mưa, lượng mưa trung bình tăng thêm 30%, mùa mưa có thể kéo dài thêm từ 30-45 ngày so với trước. Sự thành công ban đầu này đã khiến COMUSMACV lên kế hoạch thực hiện nó trên toàn Việt Nam.

Dự án Popeye đã mở rộng từ khu vực sông Sê Kong ra phía Tây Bắc Việt Nam, khu vực thung lũng A Sầu và sang cả khu vực đông bắc Campuchia. Dự án Popeye kéo dài cho đến tận tháng 07/1972. Thông tin về Dự án Popeye bắt đầu bị rò rỉ vào đầu năm 1972 khi Jack Anderson (người được mạnh danh là cha đẻ của báo chí điều tra hiện đại) công bố việc Mỹ sử dụng các phương thức thay đổi thời tiết như một thứ vũ khí trong chiến tranh Việt Nam trên tờ Bưu điện Washington.

Tuy nhiên, tại thời điểm đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ là Melvin Laird đã báo cáo trước Quốc hội Mỹ rằng thông tin mà Jack Anderson nêu ra “là một câu chuyện hoang đường và hoàn toàn sai sự thật”. Tuy vậy, trong một tài liệu mật bị rò rỉ vào năm 1974, Bộ trưởng Melvin Laird thừa nhận lúc đó ông ta buộc phải nói dối để che đậy một dự án quốc phòng bí mật nếu tiết lộ có thể dẫn đến sự phản đối của cộng đồng quốc tế.

Các con số được công bố sau này cho thấy, trong suốt quá trình thực hiện Dự án Popeye, Không quân Mỹ đã thực hiện hơn 2.600 chuyến bay rải vào các đám mây 47.000 đơn vị iốt bạc hoặc I ốt chì với tổng chi phí 21,6 triệu USD.

Bất chấp những nỗ lực kéo dài mùa mưa trên đường mòn Hồ Chí Minh của Mỹ, hàng hóa từ phía Bắc vẫn ào ào tiến về phía Nam góp phần quan trọng trong công cuộc  giải phóng đất nước. Ảnh tư liệu.
Bất chấp những nỗ lực kéo dài mùa mưa trên đường mòn Hồ Chí Minh của Mỹ, hàng hóa từ phía Bắc vẫn ào ào tiến về phía Nam góp phần quan trọng trong công cuộc giải phóng đất nước. Ảnh tư liệu.

Mặc dù không có thống kê chính xác nào về hiệu quả mà Dự án Popeye mang lại cho lực lượng Mỹ tại Việt Nam cũng như những thiệt hại mà nó gây ra cho quân đội Việt Nam, nhưng Dự án Popeye bị coi là một hành động vô nhân đạo. Việc kéo dài mùa mưa gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình sản xuất, đe dọa mùa màng cũng như gây lũ lụt có thể nguy hiểm đến tính mạng dân thường.

Nếu mở rộng việc thực hiện việc thay đổi thời tiết như một thứ vũ khí thậm chí có thể gây hậu quả nghiêm trọng hơn đe dọa sự ổn định sinh thái trong khu vực. Sự kiện Mỹ sử dụng vũ khí thời tiết trong chiến tranh Việt Nam đã vấp phải sự phản đối gay gắt của công đồng quốc tế.

Trước tình hình đó Thượng nghị sĩ Mỹ Claiborne Pell và dân biểu Donald Fraser đã phát động một chiến dịch vận động chính trị về việc cấm sử dụng việc thay đổi thời tiết như một thứ vũ khí nhằm chống lại một quốc gia nào đó.

Đến tháng 05/1977, đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Công ước ENMOD quy định việc cấm sử dụng các biện pháp thay đổi thời tiết nhằm mục đích gây thiệt hại hoặc phá hủy hệ sinh thái chống lại bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.

Hiện tại có 76 nước tham gia đầy đủ vào Công ước ENMOD trong đó có Việt Nam, 48 nước khác chỉ ký mà chưa tham gia đầy đủ.

Minh Đức – theo Trí Thức Trẻ

Mỹ dùng ‘vũ khí thời tiết’ trong Chiến tranh Việt Nam

Quân đội Mỹ từng sử dụng những kỹ thuật thay đổi thời tiết trong Chiến tranh Việt Nam, chẳng hạn như rải tinh thể bạc iodide để tăng thời gian của mùa mưa trên đường mòn Hồ Chí Minh khiến hoạt động vận chuyển hàng hóa từ miền bắc vào miền nam trở nên khó khăn hơn.

Khả năng tạo ra những trận siêu bão của con người giờ không chỉ là những điều tồn tại trong phim khoa học viễn tưởng.

Natural News vừa tiết lộ một bí mật về việc Mỹ đang âm thầm phát triển một chương trình vũ khí mang tên HAARP (High Frequency Active Auroral Research Program, tạm dịch là “Chương trình nghiên cứu hoạt động cực quang cao tần”). Về lý thuyết, đây là chương trình tạo ra một liên kết radio trên một khoảng cách rất xa nhờ vào tầng điện ly của bầu khí quyển để kết nối các hoạt động của Hải quân Mỹ trên toàn thế giới.

Trạm an-ten phát tần số cao tần của chương trình HAARP của Mỹ nhằm tác động vào sự thay đổi của tầng điện ly từ đó kiểm soát việc thay đổi thời tiết.

Diễn biến thời tiết ở trên mặt đất phụ thuộc rất lớn vào những thay đổi ở tầng điện ly. Nếu con người hiểu sự biến đổi của tầng điện ly thì chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát việc thay đổi thời tiết ở trên mặt đất. Chương trình HAARP sử dụng các máy phát tần số cao truyền tín hiệu vào tầng điện ly để nghiên cứu những thay đổi do nó tạo ra.

Một báo cáo của Duma quốc gia Nga cho biết: “Mỹ đang có kế hoạch thực hiện các thí nghiệm với quy mô lớn hơn với chương trình HAARP nhằm tạo ra một thứ vũ khí thời tiết có khả năng phá vỡ các hoạt động liên lạc bằng sóng vô tuyến đối với các thiết bị trên tàu vũ  trụ, vệ tinh, tên lửa, gây ảnh hưởng đến mạng lưới điện trên mặt đất cũng như các đường ống dẫn dầu và khí đốt”.

Các nhà khoa học còn cho rằng, chương trình HAARP có khả năng tạo ra những kiểu thời tiết bất thường như các trận siêu bão, hạn hán, lũ lụt, tuyết rơi làm phá hủy hệ thống sinh thái và nông nghiệp của đối phương, gây bất ổn và làm kiệt quệ nền kinh tế của đối phương, khiến họ phải phụ thuộc vào viện trợ hay nhập khẩu lương thực từ Mỹ và các nước phương Tây khác.

TheWeatherSpace  cho rằng, Không quân Mỹ đã từng tạo ra một trận lốc xoáy ở bang Oklahoma trong khuôn khổ chương trình HAARP của họ. Ảnh minh họa.

Tới nay Mỹ đã triển khai chương trình HAARP trên thực tế. Theo Global Research, Mỹ đã bí mật lắp đặt 132 máy phát tần số cao tần ở bang Alaska để phục vụ cho quá trình nghiên cứu tầng điện ly. The Weather Space từng tiết lộ, Không quân Mỹ đã tiến hành thử nghiệm kỹ thuật tạo lốc xoáy ở bang Oklahoma. Tuy nhiên, Không quân Mỹ đã phủ nhận tin này.

Mặc dù chương trình HAARP vẫn còn là một ẩn số nhưng quân đội Mỹ từng sử dụng những dạng vũ khí thời tiết trong chiến tranh tại Việt Nam.

Từ ngày 20/3/1967-5/7/1972, Không quân Mỹ đã tiến hành chiến dịch Popeye nhằm làm trầm trọng hơn mùa mưa tại Lào, đặc biệt là các khu vực đường mòn Hồ Chí Minh, gây khó khăn cho các hoạt động tiếp tế hàng hóa.

Trong chương trình này, Không quân Mỹ đã sử dụng các máy bay rải tinh thể bạc iodide nhằm tăng cường sự tích tụ của các đám mây nhằm gây mưa trên mặt đất. Chiến dịch Popeye đã khiến mùa mưa trên đường mòn Hồ Chí Minh kéo dài thêm từ 30 đến 45 ngày. Lượng mưa tăng thêm khoảng 30% so với thông thường.

Việc mùa mưa kéo dài khiến các tuyến đường trở nên lầy lội, các khe suối luôn đầy lũ dữ khiến hoạt động vận chuyển hàng hóa từ miền bắc vào miền nam trở nên khó khăn hơn, mất nhiều thời gian hơn và tốn kém hơn. Chiến dịch Popeye làm thay đổi thời tiết trên đường mòn Hồ Chí Minh đã đạt được những thành công nhất định.

Trong chiến dịch bao vây Khe Sanh năm 1968 , Không quân Mỹ cũng sử dụng một dạng vũ khí thời tiết khác là sử dụng muối để làm tan sương mù trên mặt đất từ đó tạo thuận lợi hơn cho các hoạt động chi viện hỏa lực đường không của họ.

Việc nghiên cứu và can thiệp, góp phần thay đổi thời tiết sẽ có tác dụng nhất định trong việc chống lại biến đổi khí hậu do sự ấm lên toàn cầu. Tuy nhiên, nó cũng kéo theo nguy cơ vô cùng lớn khi trở thành một thứ vũ khí.

Một khi đã kiểm soát được việc thay đổi thời tiết, con người có thể sử dụng nó cho những mục đích bất chính. Khi đó, vũ khí thời tiết sẽ là thảm họa đối với nhân loại nếu không được ràng buộc bởi luật pháp quốc tế.

Quốc Việt

Theo TTT

Westmoreland rất sai lầm khi nói về Tướng Giáp và Chiến tranh Việt Nam

“Tướng Giáp chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước ông. Còn Westmoreland tàn sát sinh linh để chứng minh rằng chúng ta có thể ném bom đẩy Việt Nam về thời kỳ đồ đá.”

Sau khi đăng tải trên New York Times, bài viết của nhà báo Nick Turse mang tựa đề “Với người Mỹ, mạng sống ở Việt Nam từng quá đỗi rẻ mạt” đã nhận được rất nhiều ý kiến đồng tình của độc giả.

Tất cả đều tán thưởng những lập luận sắc bén của tác giả bài báo khi phản bác lại quan điểm ngụy biện đầy phi lý và giả dối của tướng Westmoreland, cựu Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, rằng quân đội Mỹ thua là vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã “không tiếc tính mạng binh lính để đổi lấy chiến thắng”.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc gặp với cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1995
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong cuộc gặp với cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ McNamara năm 1995

Bạn đọc Tina ở Monroe, bang Oregon bình luận: Bài viết hoàn toàn chính xác. Chính nước Mỹ đã coi thường tính mạng của những người Việt Nam vùng dậy chống lại sự xâm lược của Mỹ. Những kẻ chỉ trích Tướng Giáp không hài lòng vì người Việt Nam đã giành thắng lợi trong cuộc chiến. Một câu hỏi đơn giản như thế này: Tướng Westmoreland có được vị thế anh hùng ở Mỹ như vị thế của Tướng Giáp ở Việt Nam hay không?

Ý kiến này ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của một độc giả khác, Craig Geary ở Redlands, bang Florida: Tướng Giáp chiến đấu vì độc lập, tự do của đất nước ông. Còn Westmoreland tàn sát sinh linh để chứng minh rằng chúng ta có thể ném bom để đẩy Việt Nam về thời kỳ đồ đá.

Độc giả Eduardo Rios, ở Chicago bày tỏ: Những người còn chưa dám nhìn thẳng vào sự thật đang làm vấy bẩn giá trị của một người đã chiến đấu chống lại chiến tranh phi nghĩa. Ông xứng đáng được coi là một anh hùng, không chỉ bởi người dân của mình, mà bởi hầu hết mọi người trên thế giới.

Một độc giả khác ở Oakland viết: Có hai điểm cần lưu ý: Thứ nhất, Tướng Giáp, cũng giống như Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong rất nhiều năm, đã chiến đấu bảo vệ tổ quốc của mình trước các cường quốc phương Tây với sức mạnh vượt trội. Ông xứng đáng có một vị trí trong lịch sử Việt Nam. Thứ hai, Tướng Westmoreland đã sử dụng một công thức bất minh để tính toán con số thương vong. Cách đó không dựa trên những báo cáo thực mà dựa vào số đầu đạn bắn ra. Kết quả là, con số thương vong đã bị phóng đại lên rất nhiều để biện minh cho những tổn thất khổng lồ về mạng sống và tiền bạc trong cuộc chiến bất hạnh này.

Bạn đọc Asher, Brooklyn, New York cũng chia sẻ: Thật khủng khiếp. Giết hại hàng ngàn người ở các ngôi làng, trên phố chợ và ngoài cánh đồng, đó không phải là điều đáng vinh quang hay tự hào. Đó là hành động tàn sát. Những gì xảy ra nhiều năm trước đây ở Việt Nam lại đang diễn ra ở Afghanistan. Tôi cảm ơn Tổng thống, Liên Hợp Quốc đã ngăn chặn thêm một thảm họa nữa ở Syria.

JJ Coker ở Mandeville Louisiana bình luận: Những người phương Tây coi trọng mạng sống của những người phương Tây khác nhưng lại coi rẻ mạng sống của những người khác màu da. Westmoreland đã rất sai lầm.

Độc giả Bob ở New York bày tỏ cảm nhận theo một cách khác: Cảm ơn Nick Turse về bài viết. Chiến tranh luôn luôn là điều khủng khiếp nhất và Việt Nam từng phải chứng kiến một cuộc chiến như vậy. Nhưng ngày nay, Việt Nam là một đất nước thanh bình thu hút nhiều khách du lịch Mỹ. Tôi chẳng nhận thấy bất cứ sự de dọa nào ở đây cả. Nếu Mỹ không đánh chiếm Việt Nam, chúng ta đã không mất 50.000 binh lính và sinh mạng của biết bao người Việt Nam khác, trong đó có cả phụ nữ, trẻ em và người già.

Theo Trung Phạm (Trí Thức Trẻ)

Trong chiến tranh Việt Nam, ai mới là kẻ coi rẻ mạng người?

Westmoreland từng có một câu nói nổi tiếng: “Người phương Đông không coi trọng mạng sống như người phương Tây. Ở phương Đông, mạng người là thứ đầy rẫy và rẻ mạt”.

Nhiều năm sau khi kết thúc cuộc chiến, một số tướng lĩnh và chính trị gia Mỹ vẫn tìm cách biện hộ cho thất bại của mình bằng cách chỉ trích, đưa ra những cáo buộc phi lý.

William C. Westmoreland, cựu chỉ huy các chiến dịch quân sự Mỹ tại Việt Nam là một trong số này. Ông ta cho rằng quân đội Mỹ thua là vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã “không tiếc tính mạng binh lính để đổi lấy chiến thắng”.

Một bài viết của nhà báo, sử gia người Mỹ Nick Turse đăng trên tờ New York Times ngày 9/10 với tựa đề: “For America, Life Was Cheap in Vietnam” (tạm dịch: Với người Mỹ, mạng sống ở Việt Nam từng quá đỗi rẻ mạt) đã phản bác mạnh mẽ những ngụy biện phi lý này của giới quân sự Mỹ.

Dưới đây là nội dung bài viết:

Sự thất bại của Mỹ không thể ngụy biện bằng số người Việt Nam thương vong dưới tay chúng ta, mà xuất phát từ chính những sai lầm trong chính sách và chiến thuật của chúng ta.

Ước tính của các nhà nghiên cứu và thống kê của chính phủ Mỹ cho thấy, trong khi gần 60.000 binh sĩ Mỹ tử trận thì có đến 2 triệu dân thường Việt Nam bị sát hại và hàng triệu người khác bị thương, tan nhà, nát cửa suốt thời gian Mỹ tham chiến tại Việt Nam.

Thảm sát Mỹ Lai, một tội ác không thể chối cãi của lính Mỹ ở Việt Nam
Thảm sát Mỹ Lai, một tội ác không thể chối cãi của lính Mỹ ở Việt Nam

Oán ghét và thù hận khi bị chính những binh lính Mỹ luôn tự nhận là đồng minh ngược đãi, ngay cả những thường dân vốn không có ý định hậu thuẫn gì cho đối thủ của chúng ta cuối cùng cũng đã làm việc đó.

Bốn thập đã qua, giờ đây, ở những vùng đất xa xôi như Pakistan và Afghanistan, dân thường một lần nữa lại đối xử với Mỹ như kẻ thù, bởi vì họ đã trở thành nạn nhân bất đắc dĩ của cái gọi là “chiến tranh chống khủng bố”mà phần lớn công chúng Mỹ cũng không thừa nhận.

Sau hơn một thập kỷ phân tích các tài liệu điều tra hình sự bí mật, các hồ sơ của tòa án, các nghiên cứu của Quốc hội, báo chí đương thời và những lời khai của binh sĩ Mỹ và thường dân Việt Nam, tôi đã nhận ra rằng Tướng William C.Westmoreland, thuộc cấp của ông ấy, lãnh đạo cấp trên và cả những người kế nhiệm đều đã không thèm đếm xỉa gì tới tính mạng con người.

Lý do gây nên những tổn thất rất lớn này chính là chiến lược của Mỹ: giết càng nhiều “kẻ thù” càng tốt và thành công được đo đếm bằng xác chết. Nhưng, những thi thể đó thường lại không phải binh lính đối phương.

Để thực hiện cuộc chiến tranh tiêu hao này, Mỹ tuyên bố nhiều vùng nông thôn rộng lớn ở miền Nam Việt Nam là những khu vực được tự do bắn giết. Ở đó, ngay cả những người dân vô tội đều có thể bị coi là kẻ thù. Với mục đích làm cho“kẻ thù” phải ở trong tình trạng bất ổn liên tục, quân đội Mỹ đã bắn pháo, rải bom không ngừng nghỉ, tàn sát biết bao dân thường, đẩy hàng trăm nghìn người dân vào các khu ổ chuột và các trại tị nạn.

Sỹ quan và binh lính Mỹ được phép nổ súng vào bất cứ thường dân nào bỏ chạy hoặc đứng yên khi bị xét hỏi, những hàng vi bị xếp vào diện “nghi vấn”. Những cựu chiến binh tôi từng phỏng vấn và những binh lính đã khai với các nhân viên điều tra đều nói rằng họ nhận lệnh từ các sỹ quan chỉ huy: “Bắn bất cứ thứ gì chuyển động”.

Westmoreland từng có một câu nói nổi tiếng: “Người phương Đông không coi trọng mạng sống như người phương Tây. Ở phương Đông, mạng người là thứ đầy rẫy và rẻ mạt”.

Từ các cuộc nói chuyện với những người còn sống sót sau các vụ thảm sát của lính Mỹ ở Phi Phú , Triệu Ái, Mỹ Lược và rất nhiều bản làng khác, tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng đánh giá của Westmoreland là hoàn toàn sai lầm.

Nhiều thập kỷ sau khi chiến tranh kết thúc, người dân Việt Nam vẫn không ngừng thương tiếc những người thân yêu của họ: vợ chồng, cha mẹ, con cái bị giết hại trong cơn bạo lực cuồng loạn khủng khiếp của binh lính Mỹ.

Họ cũng kể lại cho tôi nghe những năm tháng sống trong bom đạn, súng pháo và trực thăng vũ trang Mỹ; về việc họ đã phải giành giật cuộc sống như thế nào trong kháng chiến chống Mỹ; cách chiến tranh đã biến những công việc tưởng chừng rất đơn giản như đi lấy nước giếng, giúp đỡ ai đó hay ra đồng làm ruộng, đi lấy rau cho một gia đình đang chết đói… thành những quyết định giữa sự sống và cái chết; về những tháng ngày sống dưới chính sách không thể tàn nhẫn, bỉ ổi hơn của Mỹ đối với cuộc sống con người.

Khi còn là Tham mưu trưởng Lục quân, Westmoreland đã che giấu công chúng Mỹ nhiều bằng chứng tội ác. Nhóm điều tra tội ác chiến tranh tại Việt Nam, hoạt động độc lập với Lầu Năm Góc của ông ta đã bí mật thu thập được hàng ngàn trang tài liệu về tội ác của Mỹ mà tôi đã phát hiện ra trong Kho lưu trữ quốc gia.

Dù vụ thảm sát ở Mỹ Lai được tiết lộ, chính phủ Mỹ vẫn cố tình giấu giếm quy mô thương vong thực sự của dân thường và cho rằng những cái chết đó là do vô tình và không thể tránh khỏi. Họ đã để lại cho công chúng Mỹ một lịch sử giả dối về cuộc chiến tranh.

Không thực sự thừa nhận những lỗi lầm mà quân đội chúng ta gây ra trong quá khứ, người Mỹ không thể hiểu được đầy đủ những gì xảy ra ở Afghanistan, Pakistan, Yemen và nhiều nơi khác. Tại đó, các cuộc tấn công khủng bố đã giết chết không biết bao người dân vô tội.

Chúng ta cần phải từ bỏ tiêu chuẩn kép khi nói đến sinh mạng con người. Đã đến lúc phải nhìn vào thực tế số dân thường thương vong từ hậu quả các cuộc chiến tranh của Mỹ, cả quá khứ và hiện tại.

Trung Phạm (Theo Trí Thức Trẻ)