Trong thời kỳ 1945-1975, có một giai đoạn chuyển tiếp từ Chiến tranh Đông Dương sang Chiến tranh Việt Nam, giai đoạn này còn được nhiều người miền Nam gọi là giai đoạn Hậu Geneva.
Sau khi hiệp định Geneva về Đông Dương năm 1954 được ký kết giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Pháp, miền Bắc Việt Nam đã được giải phóng và đã giành được độc lập trên thực tế, người Việt làm chủ trên đất Việt.
Quân viễn chinh Pháp đã chạy về Nam, một nửa giang sơn đã định. Những người cộng sản Việt Nam bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, tái thiết và phát triển, nhằm tạo tiên đề để tiến lên hoàn tất mục tiêu còn đang dở dang: giải phóng miền Nam.
Miền Bắc hừng hực khí thế cách mạng trong không khí chiến thắng và hy vọng về ngày mai tươi sáng, nỗ lực xây dựng một xã hội đẹp tươi, với niềm tin chiến thắng và lòng tin không lay chuyển đối với biểu tượng Hồ Chí Minh, một nhà chính trị kiệt xuất của Việt Nam, một nhà hoạt động cách mạng ưu tú của cộng đồng quốc tế, người được coi là cha già dân tộc của Việt Nam, là người đã du nhập chủ nghĩa Marx-Lenin và lý tưởng Cộng Sản, lý tưởng XHCN vào Việt Nam, mở ra con đường mới: con đường đi lên CNXH và mở ra một thời đại mới: thời đại Hồ Chí Minh ở Việt Nam.
Trong khi đó, miền Nam “hậu Geneva” là một khung cảnh trầm lắng, tĩnh lặng và đầy nỗi lo. Người Pháp càng rút đi thì người Mỹ càng kéo đến. Người Pháp còn lại càng ít thì người Mỹ kéo vào càng đông.
Nếu lội ngược dòng thời gian, hòa mình trở thành một người dân thường đi lại trên đường, chúng ta thỉnh thoảng sẽ ngẫu nhiên thấy một chiếc xe Jeep đi qua, binh lính đầy trên xe, tay lăm lăm khẩu súng trường. Những người lính ấy có thể là da trắng, da vàng hoặc da đen. Những người lính ấy có thể là lính Pháp, lính ngụy, hoặc lính các lộ quân phiệt giang hồ và giáo phái vũ trang.
Những chiếc xe quân sự như thế này thường đi rất nhanh, bụi tung mờ mịt trên đường, khiến người đi bộ phải ho khan. Sau khi bọn họ đi khỏi thì không còn ai để ý nữa, cũng không có ai dõi mắt nhìn theo, mọi người đều đã quen với cảnh tượng này, quen với cuộc sống căng thẳng xen giữa tĩnh lặng, những mối hiểm họa quân sự khôn lường và nguy cơ về một cuộc chiến mới, ẩn náu phía sau ảo tưởng hòa bình.
Cũng có những người cảm thấy chẳng có gì không ổn, họ nghĩ rằng những mối lo ngại hão huyền trên báo chí là quá xa vời so với cuộc sống thực tại. Những cảnh tượng bắn giết, đầu độc chết ở ngay nhà hàng, khủng bố trắng, xả súng vào nhau, bắn tỉa xong rồi lên xe Jeep bỏ chạy, những dấu hiệu ban đầu về một cuộc khủng bố tôn giáo lớn nhắm vào đạo pháp và dân tộc, nhắm vào đạo Phật, một tín ngưỡng dân tộc gắn liền nghìn đời trên đất nước hình chữ S, chỉ là những điều thuộc về những nhân vật tai to mặt lớn mà thôi, “chẳng liên quan gì đến tôi”.
Nhưng trên thực tế, những điều đó không hề xa vời với họ.
Chín năm trước, hoàng đế thoái vị, một nửa giang sơn đã hoàn toàn đổi chủ, Việt Nam dân chủ cộng hòa và quân Pháp đại chiến, quân phiệt, giang hồ, giáo phái ly khai và hỗn chiến khắp Nam Kỳ lục tỉnh, chiến tranh liên miên, người dân đói khổ.
Nhìn lại nghìn năm lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Nam Kỳ nói riêng, hiếm có cục diện nào phức tạp đến vậy.
“Nhân vật anh hùng” nhiều như cá dưới các sông rạch miền Nam, các loại khẩu hiệu, các luồng tư tưởng, chủ nghĩa chính trị, các hệ ý thức, các chủ thuyết, học thuyết lẫn tà thuyết chính trị, các học thuyết nghiêm túc lẫn các học thuyết “mì ăn liền”, trăm hoa đua nở, không cần biết hoa hướng dương hay hoa cứt lợn, các loại âm thanh khác nhau khiến người nghe phải choáng váng không biết ai chính, ai tà, và đâu là đường ngay lẽ phải. Ai cũng muốn làm chính khách bước lên sân khấu, rống lên thật to âm thanh của bản ngã, nhân cơ hội thời loạn mà tìm kiếm lợi danh.
Đấy là một thời kỳ chất chứa tham vọng, một mồi lửa được chôn giấu trong khủng hoảng, và đấy cũng là một thời kỳ bấp bênh thối nát, trong một tòa lầu mục nát gọi là “Hòn ngọc Viễn Đông”, vẫn vang lên từng điệu nhạc trữ tình Bolero sến súa động lòng, với những vũ trường xa hoa đẹp rực rỡ, bất cứ ai nhìn thấy nó cũng sẽ không tin rằng cách đó không xa còn có những người lang thang đang vật vờ vì đói, giờ phút ấy họ đang nằm co ro trong một góc tối, chờ đợi đến sáng để xin ăn, chờ đợi lòng hảo tâm của tha nhân, lòng từ bi của những Phật tử qua đường.
Hiệp định Geneva không được thi hành đầy đủ, quân xâm lược mặc dù đang lũ lượt về nước, nhưng vấn đề độc lập – thống nhất của Việt Nam đã không được tôn trọng và tổng tuyển cử không được thực hiện như nội dung hiệp định. Bất cứ ai dám lên tiếng đòi thực thi hiệp định, đều bị “chụp mũ cối” thành bộ đội Cộng Sản và trấn áp thẳng tay.
Tuy nói rằng “Pháp đi, Mỹ đến”, nhưng trên thực tế, từ năm 1948 thì Mỹ đã bắt đầu can thiệp sơ khởi vào cuộc chiến tranh Đông Dương của Pháp. Đến năm 1950, Mỹ từng bước leo thang can thiệp sâu rộng hơn, cung cấp 78% kinh phí cho cuộc chiến tranh Đông Dương. Nguyên nhân là vì Pháp không hề có đủ kinh phí trang trải cho cuộc chiến tranh viễn chinh này và tái thành lập hệ thống thuộc địa trên toàn cõi Đông Dương, trong khi nước Pháp vừa mới được giải phóng sau cuộc kháng chiến chống Đức và chính quyền Vichy tay sai Đức. Bao nhiêu tiền của đều đã được chi tiêu vào việc bảo vệ và tái thiết đất nước và phát triển kinh tế.
Mỹ giúp Pháp chủ yếu với 3 mục đích chính:
- Vị trí chiến lược toàn cầu, bành trướng quyền lực quốc tế, muốn sử dụng Đông Dương và Việt Nam làm căn cứ quân sự của Mỹ, một căn cứ quyền lực bá quyền, nhằm đảm bảo cho tầm ảnh hưởng quyền lực của Mỹ ở một khu vực cách xa nửa vòng trái đất. Trong thư gửi Thủ tướng Anh Churchill ngày 4/4/1954, Tổng thống Mỹ Eisenhower viết: “Nếu người Pháp không thắng được trong cuộc chiến tranh này thì vị trí chiến lược toàn cầu của chúng tôi cũng như của các ngài có thể sẽ trở thành thảm họa.”
- Chống Cộng Sản, chống Việt minh, chống cách mạng, chống và ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng thuộc địa đang lan tỏa khắp năm châu. Người Cộng Sản khởi sự làm việc lớn từ những bất công, áp bức, từ những nỗ lực chống ngoại xâm giành độc lập, chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, chống chiến tranh xâm lược, giải phóng thuộc địa để tiến tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp xã hội và giải phóng con người nói chung. Do đó, muốn xâm lược thì phải chống Cộng Sản, muốn chống Cộng Sản thì phải đi xâm lược.
- Mua lấy “cổ phần” tương lai của khu vực giàu tài nguyên này, đặc biệt là ở miền Nam Việt Nam. Mỹ đầu tư vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương của Pháp với tính toán sau này sẽ chia phần với nhau các nguồn lợi tài nguyên, quyền lợi kinh tế, các lợi nhuận tài chính và lợi ích kinh doanh ở đây.
Tham vọng tài nguyên thuộc địa của chủ nghĩa thực dân trá hình và chủ nghĩa đế quốc Mỹ có thể thấy qua những diễn ngôn sau đây:
Ngày 12/2/1950, mục Xã Luận báo New York Times viết: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn, nó có thể xuất khẩu thiếc, vonfram, mangan, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu, và da thuộc. Cho đến trước chiến tranh thế giới lần thứ hai II, lợi tức thu được ở Đông Dương đã tới khoảng 300 triệu đôla hàng năm.” (trên 3,2 tỷ USD theo thời giá năm 2020)
Tổng thống Mỹ Eisenhower trong diễn văn ngày 4/8/1953 tại thành phố Seattle, bang Washington, đã nói: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc, vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không thuộc về tay chúng ta nữa. Chúng ta đang tìm cách nào rẻ tiền nhất để ngăn chặn điều bất hạnh có thể xảy đến, đó là việc mất khả năng lấy được những thứ gì chúng ta muốn lấy từ số tài nguyên giàu có của Đông Dương và Đông Nam Á.”
Do Mỹ chính là “ví tiền” của Pháp ở Đông Dương, nên cuộc kháng chiến chống Pháp ở Đông Dương còn có một tên gọi chi tiết hơn: “cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và can thiệp Mỹ 1945-1954“.
Ngay trong cuộc chiến tranh chống Pháp, với thiên tư chính trị của mình, Cụ Hồ đã sớm nhìn thấy ý đồ chiến lược lâu dài của Mỹ đối với khu vực này.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trong khi quân và dân toàn quốc vui mừng phấn chấn tinh thần thì Cụ Hồ lại ưu tư và cẩn thận dặn dò rằng thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu, “chúng ta còn phải đánh Mỹ!”
Đến tháng 7 năm 1954, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 6 họp trước khi Hiệp định Geneva được ký kết, thì lúc đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận chính thức: Đế quốc Mỹ đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương.
Ngay sau khi Pháp ký hiệp định, Cụ Hồ nói với các đồng chí cấp dưới rằng hội nghị ký hiệp định Genève thành công, nhưng chắc chắn sẽ làm cho người Việt Nam chưa vừa ý. Người Pháp có câu “Ai trả tiền, kẻ đó là chủ”. Mỹ sẽ thay thế Pháp, “chúng ta phải có sự chuẩn bị để đối phó với Mỹ”.
Trong khi mọi người, kể cả các lãnh đạo cao nhất cho rằng đây là thời điểm kết thúc cuộc chiến, thì Cụ Hồ lại đề tỉnh mọi người rằng chiến tranh chỉ mới bắt đầu, đây là thời điểm bắt đầu cuộc chiến mới.
Từ đó, Hồ Chủ tịch đã xác định đường lối cách mạng trong giai đoạn này như sau: tiến hành đồng thời 2 chiến lược ở 2 miền nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà.
Theo đó, mối quan hệ chiến lược giữa hai miền là: xây dựng miền Bắc để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam, miền Nam đẩy mạnh đấu tranh để giải phóng bản thân và cũng để bảo vệ miền Bắc. Miền Bắc có vai trò quyết định, miền Nam có vai trò trực tiếp.
Hậu Geneva, quân đội Pháp lần lượt ra đi, song tầm ảnh hưởng của Pháp thì vẫn hiện hữu. Họ chi tiền và âm thầm phát súng cho các lực lượng quân phiệt giang hồ, giáo phái, Bình Xuyên và Hòa Hảo, Cao Đài để thực hiện các mục tiêu quân sự thay cho thực binh Pháp.
Người Pháp lần lượt ra đi, thì người Mỹ lần lượt kéo vào, thay vào những chỗ trống, từng bước lấp đầy những khoảng trống quyền lực mà người Pháp để lại.
Lúc này người Pháp có hai lựa chọn:
- Bàn giao quyền lực, quyền hành lại cho Mỹ, hoàn toàn bàn giao miền Nam, lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống, lại cho Mỹ, để vãn hồi và hòa hảo lại quan hệ 2 nước, vốn đã trên đà rạn nứt trong những chương cuối của chiến tranh Đông Dương, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ cho việc tái thiết nước Pháp.
- Mưu việc duy trì quyền lực và tầm ảnh hưởng của Pháp ở miền Nam Việt Nam, cả về chính trị và quân sự, bất chấp điều này có thể khiến Mỹ nghi kỵ, gây mất lòng Mỹ và tiêu cực cho mối quan hệ Pháp – Mỹ. Vô hình trung, Pháp đã bước vào cuộc tranh đua, tranh giành quyền lực mềm và tranh đoạt miền Nam VN với Mỹ, “cạnh tranh” với Mỹ trong việc độc chiếm miền Nam VN, đứng vững ở Việt Nam và khu vực.
Mâu thuẫn quyền lực hậu Geneva giữa Pháp và Mỹ không phải lúc này mới có, mà trước đó, trong cuộc chiến Đông Dương, Pháp – Mỹ vốn đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, xung đột về lợi ích, về đường lối chính trị, về chiến lược chiến tranh, về chiến thuật quân sự.
Sau khi Pháp thua, người Mỹ bất mãn, họ cho rằng tiền bạc và vũ khí “đầu tư” cho Pháp đều đổ sông đổ biển. Họ đã tốn kém bấy nhiêu tiền vào đây rốt cuộc Pháp để hỏng việc, mà họ cho rằng một phần là vì nhiều sĩ quan chỉ huy Pháp đã bỏ ngoài tai nhiều ý kiến, đề xuất của họ. Ngoài ra, nhiều tin tức tình báo mà CIA cung cấp cho Phòng nhì Pháp đã bị bỏ qua hoặc không được thực hành, giải quyết tốt.
Đến lúc này thì sự xung khắc giữa hai đại cường quốc này đã ngày càng lớn. Từ đó, ở miền Nam hình thành hai thế lực đối lập, thế lực mới (Mỹ) và thế lực cũ (Pháp). Mỹ thâu tóm nhiều tay sai cũ của Pháp, trong số đó có nhiều sĩ quan ngụy đã từng học bên Pháp và có Pháp tịch. Lúc bấy giờ thế và lực của nước Mỹ đã rất cao, còn Pháp thì bị chê là loại thực dân cũ kỹ, lại để thua Việt minh, đang trên đà suy tàn và sớm muộn gì cũng bị Mỹ bức lui. Vì thế, nhiều tay sai cũ của Pháp đua nhau “nhảy sang thuyền mới”.
Miền Nam Việt Nam lúc này vẫn nằm dưới tầm ảnh hưởng quyền lực của Thực dân Pháp, vốn đã có gần 100 năm đứng vững tại đây. Còn Mỹ là người mới. Do đó, mục tiêu của Mỹ lúc này là bức lui Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam và hoàn toàn thay thế. Điều đó có nghĩa là từng bước đẩy lui quyền lực và thay dần vai trò của người Pháp ở miền Nam Việt Nam. Từ đó thay Pháp thiết lập ách thống trị thuộc địa trá hình và là một căn cứ quân sự, căn cứ chiến lược của Mỹ ở Việt Nam, Đông Dương và khu vực. Đồng thời giành quyền kiểm soát và quyền quyết định đối với các nguồn tài nguyên ở khu vực địa chính trị, địa kinh tế vô cùng quan trọng này. Và cũng để thuận lợi cho Mỹ trong việc thực thi chính sách chống cộng sản Việt Nam, chống cách mạng giải phóng dân tộc, chống lại phong trào giành độc lập dân tộc, và chính sách về chiến lược khu vực/toàn cầu, cũng như các mục tiêu khác trong khu vực giàu tài nguyên này.
Để đạt được mục tiêu chính trị nói trên, đầu tiên Mỹ phải đưa người của họ lên thay người của Pháp (Bảo Đại), tiếp theo là thâu tóm các lực lượng vũ trang giang hồ và giáo phái vốn đang tạm thời cộng tác với Pháp, nhằm gạt bỏ hẳn tầm ảnh hưởng quân sự của Pháp ra khỏi những khu vực trong tầm ảnh hưởng, kiểm soát của Mỹ. Và thế là câu hỏi được đặt ra, Mỹ sẽ chọn ai để đưa lên?
Theo sách “Vietnam, a History” của nhà sử học Stanley Karnow, do NXB Edition King Press xuất bản năm 1983, khi được hỏi tại sao lại chọn ông Diệm mà không phải là một nhân tuyển khác, thì tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson đã trả lời: “Diệm là thằng con trai duy nhất mà chúng ta có ở đó”. (Diem is the only boy we’ve got out there).
Tổng thống Mỹ Johnson đã trả lời rất thật cho câu hỏi này. Vì tất cả các nhân tuyển, các quân cờ dùng được thì đều đã được người khác dùng rồi. Cựu hoàng Bảo Đại, ông vua cuối cùng của nhà Nguyễn, đã được phát xít Nhật dùng rồi (1945) đến thực dân Pháp dùng lại (1949). Nhà nho Trần Trọng Kim, là một sĩ phu thanh liêm, có chút uy tín qua việc viết sách, nhưng nhu nhược và ngây thơ non kém chính trị, đã bị phát xít Nhật lợi dụng và vắt sạch quả chanh.
Dùng lại những con cờ chính trị mà Nhật – Pháp đã sử dụng và bỏ rơi thì rõ ràng là không ổn, không phải là những quyết định sáng suốt và có lợi. Hơn nữa, cũng chưa chắc khả thi, vì Bảo Đại là tay sai trung thành của Pháp, mà lúc này Mỹ đang nỗ lực thay dần quyền lực của Pháp. Còn ông Trần Trọng Kim thì sau Cách mạng tháng Tám đã tỉnh ngộ ra phần nào nên đã buông bỏ chính trị mà chọn sống ẩn dật.
Như vậy, Mỹ chọn Diệm là vì lúc đó chỉ còn lại người này là nhân tuyển khả thi duy nhất mà tương đối hội đủ điều kiện, gia đình danh giá, quyền quý, có kinh nghiệm chính trị – quân sự nhiều năm. Ngô Đình Khả và các con em nhiều lần đi theo Nguyễn Thân khủng bố, đàn áp các lực lượng nghĩa quân. Họ có công lao rất lớn với Pháp trong việc đánh dẹp nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng và Cao Thắng lãnh đạo.
Ngày 13/1/1955, Ngô Đình Diệm, với cương vị là Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại (Pháp), công bố chính thức trên truyền thông Sài Gòn rằng Hoa Kỳ từ nay có toàn quyền về vấn đề tổ chức và huấn luyện quân đội Sài Gòn thay cho người Pháp, vốn đã thành lập quân đội này năm 1948 để cầm súng đánh thuê cho Pháp, và để cho quân Pháp tiết kiệm được xương máu.
Ngày 12/2/1955, trong cuộc họp báo tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm công bố từ nay tướng John O’Daniel sẽ thay Pháp huấn luyện các lực lượng quân đội người Việt, và cả những sĩ quan con lai Pháp và công dân Pháp gốc Việt có Pháp tịch.
Trước mặt đại diện Hoa Kỳ, các sĩ quan Sài Gòn đã tổ chức đốt tượng trưng quân hàm, quân hiệu của quân đội Pháp mà họ vẫn đeo tại sân Bộ Tổng tham mưu. Thay vào đó là những phù hiệu mới của quân đội Mỹ.
Ngày 6 tháng 10 năm 1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố sẽ mở cuộc “trưng cầu dân ý”. Các cơ quan truyền thông Sài Gòn do Mỹ cấp chi phí cũng bắt đầu những chiến dịch thông tin nói xấu Bảo Đại và ca ngợi “thủ tướng anh minh” Ngô Đình Diệm, với những khẩu hiệu phát đi phát lại như: “Phiếu đỏ ta bỏ vô bì / Phiếu xanh Bảo Đại ta thì vứt đi”.
Đó là vì có 2 lá phiếu: Một xanh, một đỏ. Lá màu đỏ in hình Ngô Đình Diệm với câu: “Tôi bằng lòng truất phế Bảo Đại và nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”. Lá xanh in hình Bảo Đại thì có câu: “Tôi không bằng lòng truất phế Bảo Đại và không nhìn nhận ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam với nhiệm vụ thiết lập một chế độ dân chủ”.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, Mỹ-Diệm dàn dựng cuộc “trưng cầu dân ý” gian lận. Trước đó họ đã cho cảnh sát gõ cửa từng nhà “vận động” người dân đi ghi tên và bầu cử, bắt giam những người chống lại với lý do tình nghi Cộng sản nằm vùng, họ cho dân Công giáo di cư 1954 – vốn nhiều người chống cộng sản và ủng hộ gia đình Diệm – đi đầu “bỏ phiếu” rồi ghi hình, chụp ảnh.
Cuộc bỏ phiếu đã trở thành scandal quốc tế gây nhiều chế giễu và đàm tiếu, vì ban tổ chức đã sắp xếp quá vụng về, lộ liễu để Ngô Đình Diệm tuyệt đối thắng. Ngô Đình Diệm “đắc cử” với “98,2%” số phiếu. Đại tá CIA Edward Lansdale trước đó đã bảo Diệm rằng: “Trong lúc tôi đi vắng, tôi không muốn bỗng nhiên nhận được tin rằng ông thắng 99,99%. Vì nếu như thế thì biết đó là kế hoạch sắp đặt trước”.
Đại tá Lục quân Hoa Kỳ, tiến sĩ Spencer C. Tucker trong sách Encyclopedia of the Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do ABC-CLIO xuất bản năm 2000 và sử gia Stanley A. Karnow trong sách Vietnam: A history (Việt Nam: 1 lịch sử) do Penguin Books xuất bản năm 1997, đã ghi nhận cái gọi là “trưng cầu dân ý” này còn có những gian lận vụng về, lộ liễu khác, như ở Sài Gòn, Diệm công bố được “605.025″ phiếu trong khi khu vực này có chưa tới 450.000 cử tri ghi tên.
Sau khi hoàn thành vụ lừa đảo chính trị, Diệm công bố rằng có đến “98,2%” số phiếu ủng hộ ông ta, kết quả là Bảo Đại, người của Pháp, bị phế bỏ. Còn Ngô Đình Diệm, người của Mỹ, được đưa lên đứng đầu. “Quốc Gia Việt Nam” được đặt “quốc hiệu” mới: “Việt Nam Cộng Hòa”.
Cuối tháng 4 năm 1956, người lính Pháp cuối cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam. Một phần vì áp lực của Mỹ, một phần do vẫn muốn duy trì ảnh hưởng trong ngụy quân và ngụy quyền đã từng dưới quyền của họ, nên chính phủ Pháp đã bàn giao lại phi cơ, tàu chiến, các loại xe quân sự, dụng cụ chiến tranh cho quân đội ngụy đang được Mỹ xây dựng và tổ chức lại.
Phái bộ huấn luyện quân sự hỗn hợp của Pháp – Mỹ (TRIM) trước đây đã chuyển thành “Phái bộ huấn luyện tác chiến lục quân” (CATO – Combat army training organization) gồm toàn người Mỹ. Đến tháng 3/1956 số lượng sĩ quan chỉ huy Mỹ đã từ 351 người lên 1550 người.
Cơ quan trung ương CATO do tướng Samuel Williams phụ trách, gồm 170 sĩ quan (3 tướng và 167 tá), phân ra nắm mọi ngành. Bên cạnh mỗi bộ tư lệnh quân khu có một đại tá và nhiều sĩ quan khác. Mỗi sư đoàn nặng có từ 6 đến 8 đại tá Mỹ, mỗi sư đoàn nhẹ có từ 3 đến 5 trung tá. “Cố vấn” Mỹ lúc này chỉ nắm cấp trung đoàn, chưa nắm cấp tiểu đoàn.
Tiếp tục lộ trình đẩy lui Pháp ra khỏi miền Nam Việt Nam, Mỹ bắt đầu từng bước gạt bỏ các lực lượng vũ trang thân Pháp, sử dụng quân đội Sài Gòn tảo thanh và thôn tính các lực lượng này. Đồng thời cũng để làm sạch đi phần nào những vết nhơ, tai tiếng về quá khứ làm quan, làm “thủ tướng” cho thực dân Pháp của Diệm và gia đình họ Ngô.
Liên tỉnh ủy Khu Trung Nam Bộ đóng ở Rạch Tràm, thuộc xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An và huyện Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho đã họp và nhất trí như sau: Thời gian này, nội bộ giặc đang có những diễn biến phức tạp, bọn tay sai của Pháp và của Mỹ có khả năng sẽ xung đột với nhau. Bọn theo Mỹ đã mạnh lên, hơn hẳn bọn theo Pháp. Nhưng bọn theo Pháp cũng không dễ dàng đầu hàng, vì chúng có võ trang khá mạnh, lại chiếm cứ những vùng đông dân. Chắc chắn bọn chúng sẽ đánh nhau và điều này có lợi cho cách mạng, ta cần phải lợi dụng tình hình.
Ngày 29 và 30/3/1955, Mỹ-Diệm chiếm trung tâm cảnh sát, đẩy lùi quân Bình Xuyên thân Pháp của Bảy Viễn về phía Chợ Lớn. Đồng thời mua chuộc cảnh sát trưởng Lại Hữu Sang từng làm việc cho phòng nhì Pháp. Về cơ bản đã cắt bỏ quyền kiểm soát của Pháp và Bình Xuyên đối với trung tâm cảnh sát.
Đối với liên minh Cao Đài, Mỹ-Diệm dùng nhiều đô la Mỹ chiêu hàng được tướng Trình Minh Thế, rồi dùng Trình Minh Thế đánh bại Bình Xuyên, Bảy Viễn trốn sang Pháp sống lưu vong. Sau đó Mỹ-Diệm giết Trình Minh Thế rồi đổ cho Pháp. Con trai ông Trình Minh Thế là ông Trình Minh Sơn ở Quebec, Canada đã vạch trần và tố cáo tội ác Mỹ-Diệm giết cha mình trên Thời báo Asia (số 22/11/2003) và nguyệt san Làng Văn, Canada (số 232, tháng 12 năm 2002).
Đối với Cao Đài phe Tây Ninh, Mỹ cũng nhanh chóng chia rẽ và mua chuộc thành công Nguyễn Thành Phương, Lê Văn Tất. Giáo chủ Cao Đài Tây Ninh là Hộ pháp Phạm Công Tắc không chịu cộng tác với Mỹ-ngụy, đã lánh sang Campuchia.
Ngày 6/5/1955, Mỹ đưa quân ngụy đi tảo thanh dư đảng Bình Xuyên ở cầu Chữ Y, cầu Nhị Thiên Đường và Xóm Củi (Chợ Lớn), quân Bình Xuyên thua chạy về Gò Công và rừng Sác. Đến ngày 24/10/1955 thì lực lượng Bình Xuyên toàn quân bị tiêu diệt. Riêng quân Bình Xuyên do ông Bảy Môn chỉ huy thì trước đó đã được lực lượng chống Mỹ thuyết phục và đã sớm rút sang Thị Vải để dựa vào cách mạng và đồng bào chống Mỹ-Diệm. Con trai của Bảy Viễn là tham mưu trưởng lực lượng Bình Xuyên cũng tử trận trong chiến dịch này.
Sau khi tiêu diệt Cao Đài và Bình Xuyên, Mỹ-Diệm bắt đầu thanh toán Hòa Hảo. Lực lượkng võ trang Hòa Hảo đến thời điểm này đã có 3 nhóm biệt lập là Trần Văn Soái (Năm Lửa), Lê Quang Vinh (Ba Cụt) và Hai Ngoán. Ngày 20/5/1955, quân ngụy dưới sự chỉ huy của các sĩ quan “cố vấn” Mỹ, tổng tấn công vào cả ba nhóm Hòa Hảo cùng một lúc.
Nhóm của Hai Ngoán yếu nhất nên thất trận và bị chiêu hàng nhanh chóng. Hai nhóm Năm Lửa và Ba Cụt tuy khá mạnh nhưng cũng bị thua, bèn trốn vào Đồng Tháp Mười lập căn cứ chống Mỹ-Diệm. Cả Năm Lửa và Ba Cụt đều cử người bắt liên lạc với lực lượng cộng sản miền Nam để tìm kiếm sự ủng hộ.
Phía cộng sản cho rằng nên giúp đỡ phe yếu thế, gây khó khăn thêm cho Mỹ, nên đã đồng ý trợ giúp, cung cấp lương thực nuôi mấy ngàn quân Hòa Hảo. Được các cán bộ quân sự của cộng sản vốn già dặn kinh nghiệm sau 9 năm đánh Tây giúp sức, lực lượng Hòa Hảo đã thoát nguy và thắng lại được một số trận như Xảo Xáu (Giồng Riềng), Vườn Cỏ (Long Mỹ), Cây Bàng (An Biên). Tuy nhiên, người cộng sản không trực tiếp cầm súng chiến đấu.
Vậy tại sao phía cách mạng không trực tiếp tham chiến? Có hai nguyên nhân:
- Lúc bấy giờ chính sách của Trung ương ở Hà Nội, được truyền đạt lại bởi các Đảng bộ miền Nam là thuần túy đấu tranh chính trị đòi thực thi hiệp định Geneva, tổng tuyển cử thống nhất đất nước trong hòa bình, chưa cho phép đấu tranh vũ trang.
- Không có lợi cho cách mạng. Ngồi xem Pháp – Mỹ đấu nhau, tay sai của họ bắn nhau, đồng thời bảo tồn thực lực mới là thượng sách.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã quyết tâm bình định miền Nam, do bị đánh quá ráo riết và bất mãn với sự án binh bất động của phía cộng sản, Năm Lửa đem 4000 quân đầu hàng Mỹ-Diệm. Lực lượng Ba Cụt ở Kiên Giang với nòng cốt là trung đoàn Lê Quang Vinh vẫn liều chết chống giữ.
Ngày 13/4/1956, Ba Cụt bị “phó tổng thống” ngụy quyền Nguyễn Ngọc Thơ dùng tình bạn thân lừa ra Cần Thơ để nhận chức trung tướng và bị cậu bạn thân cho lính bắt ở Chắc Cà Đao. Đến ngày 13/7/1956, Ba Cụt bị xử chặt đầu ở Cần Thơ dưới máy chém, theo cách hành quyết của thời trung cổ. Lực lượng vũ trang Hòa Hảo của Ba Cụt một số ra hàng Mỹ-ngụy, số lớn tan rã, số còn lại khá đông theo về với cách mạng, gia nhập các lực lượng kháng chiến chống Mỹ.
Sau sự kiện này, về quân sự, cơ bản Mỹ đã khá thành công với mục tiêu thay thế Pháp. Ảnh hưởng quân sự của Pháp trong vùng tạm chiếm bị suy giảm đáng kể. Và sau 1961 thì có thể nói Mỹ đã hoàn thành việc thay thế Pháp cả về chính trị và quân sự, bắt đầu một chương mới của cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Sưu tầm
(Tổng hợp từ nhiều nguồn)