Daniel Ellsberg là ai?
Daniel Ellsberg là tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard, tốt nghiệp năm 1962. Sau khi tốt nghiệp, ông đến Việt Nam công tác trong nhóm tư vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng và Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Năm 1967, Ellsberg trở về Mỹ và được phân công làm việc trong nhóm sĩ quan, chuyên viên Lầu Năm Góc chuyên nghiên cứu, phân tích chiến lược tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara.
Năm 1971, ông đã gây chấn động nước Mỹ khi lấy cắp thông tin mật của Lầu Năm Góc bằng cách sao chụp 7 nghìn trang hồ sơ Lầu Năm Góc về kế hoạch leo thang chiến tranh Việt Nam, sau đó ông đào thoát và trao cho nhà báo danh tiếng của New York Times là Neil Sheehan. Vụ đánh cắp thông tin và trốn thoát đầy kịch tính này đã tạo ra một scandal lớn và một làn sóng phản đối chiến tranh mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử Hoa Kỳ.
Mặc dù tập hồ sơ đã được New York Times nhanh chóng cho phát hành, tuy nhiên sau đó nó nhanh chóng bị tịch thu theo luật bảo mật thông tin quốc gia.
Năm 2002, ông hoàn thành quyển hồi ký Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers (Những bí mật về chiến tranh Việt Nam – Hồi ức về Việt Nam và hồ sơ Lầu Năm Góc), từng là best-seller năm ấy. Ngay từ khi phát hành, cuốn hồi ký của Ellsberg đã gây xôn xao dư luận. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của chính tác giả và những âm mưu của tổng thống Nixon cùng Lầu Năm Góc đối với cuộc chiến tại Việt Nam. Trong tác phẩm, Ellsberg đã mô tả lại quá trình nhận thức của ông ta về Chiến tranh Việt Nam như sau: “Thoạt đầu tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm họa về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác”.
Tháng 3/2006, Ellsberg trở lại thăm Việt Nam và được trao kỷ niệm chương “Vì hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc”, tôn vinh những cống hiến của ông dành cho Việt Nam.
Tháng 6/2011, các tài liệu hình thành nên Hồ sơ Lầu Năm Góc đã từng bị thu hồi năm 1971 đã được giải mật, phát hành công khai, và được cho rằng đã công bố “toàn bộ”.
Hồ sơ Lầu Năm Góc nói gì?
Hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) có tên chính thức là Báo cáo của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về Lực lượng đặc biệt ở Việt Nam (Report of the Office of the Secretary of Defense Vietnam Task Force), là một bộ hồ sơ của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về vai trò chính trị và quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam từ năm 1945 đến 1967.
Hồ sơ này đã chấm dứt những tranh cãi từ trước năm 1975 đến nay về vấn đề: Ai đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm và cũng chính ai đã bóp chết nó.
Tuy nhiên, về nguyên nhân Mỹ đã gây ra và tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam thì có sự thiếu nhất quán. Trong số hồ sơ mà Tiến sĩ Ellsberg đánh cắp được thì có những mâu thuẫn ở nguyên nhân Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam, những hồ sơ những năm 1950 thì cho thấy giới chức Mỹ cho rằng nguyên nhân chủ yếu cho việc gây chiến tranh ở Việt Nam là để “kìm hãm và chế ngự Trung Quốc”, bởi ngay thời đó mà họ đã có tính toán chiến lược rằng Trung Quốc sẽ phát triển lớn mạnh và đe dọa vị thế của họ.
Mặc dù Tổng thống Hoa Kỳ Johnson tuyên bố rằng mục đích của Chiến tranh Việt Nam là để đảm bảo một “Nam Việt Nam độc lập, không cộng sản”, một bản ghi chú tháng 1 năm 1965 của Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng John McNaughton nêu rõ rằng cuộc chiến tranh Việt Nam “không phải để giúp đỡ bạn bè, mà là để kìm hãm Trung Quốc”.
Vào ngày 3 tháng 11 năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara đã gửi một bản ghi chú cho Tổng thống Johnson, trong đó ông giải thích “các quyết định chính sách quan trọng đối với đường lối hành động của chúng tôi ở Việt Nam”. Bản ghi chú bắt đầu bằng việc tiết lộ lý do đằng sau vụ ném bom miền Bắc Việt Nam vào tháng 2 năm 1965:
"Quyết định ném bom miền Bắc Việt Nam vào tháng 2 và việc phê duyệt giai đoạn I vào tháng 7 chỉ có ý nghĩa nếu chúng ủng hộ chính sách lâu dài của Hoa Kỳ nhằm kìm hãm Trung Quốc."
McNamara buộc tội Trung Quốc nuôi dưỡng khát vọng “đế quốc” giống như của Đức Quốc xã và phát xít Nhật. Theo McNamara, Trung Quốc đang âm mưu “tổ chức toàn bộ châu Á” chống lại Hoa Kỳ:
"Trung Quốc - như Đức vào năm 1917, như Đức ở phương Tây và Nhật Bản ở phương Đông vào cuối những năm 30 và giống như Liên Xô vào năm 1947 - hiện ra như một cường quốc đe dọa làm suy giảm tầm quan trọng và vị trí của chúng ta trên trường quốc tế, và, mặc dù từ xa nhưng hết sức nguy hiểm, tổ chức toàn bộ châu Á chống lại chúng ta!"
Tuy nhiên, khi đến các hồ sơ những năm 1960 về sau này thì họ lại cho thấy “70%” nguyên nhân của chiến tranh Việt Nam là do người Mỹ muốn giữ thể diện nước lớn và không muốn trở thành bên thua cuộc. Yếu tố “chống Trung Quốc” lúc này chỉ còn lại “20%”. Như vậy, ngay cả các hồ sơ Lầu Năm Góc đã có những ngôn luận và ghi chép không nhất quán về nguyên nhân Mỹ xâm lược Việt Nam.
Tuy vậy, có lẽ cũng nên nhìn nhận một thực tế là Trung Quốc luôn đứng ở vị trí trung tâm và có vai trò lớn trong các toan tính của các nước khi xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Có thể thấy qua việc phương Tây đã gắn tên Trung Quốc vào Biển Đông (South China Sea) và bán đảo Đông Dương (Indo-China).
Gần đây có phát hiện mới cho rằng Pháp xâm lược Đông Dương là trong một toan tính sau khi xâm lược Đông Dương thì tiếp theo sẽ xâm lược Trung Quốc, cụ thể là đánh chiếm tỉnh Vân Nam từ phía Việt Nam, hợp tác với thực dân Anh đang gây chiến tranh xâm lược ở Trung Quốc với cuộc chiến tranh Nha Phiến.
Ngoài ra, có thể thấy chính quyền Diệm đã nỗ lực bài trừ người Hoa và chống Trung Hoa một cách khá bất thường, vượt ngoài phạm vi của một người Kito thù ghét ác cảm người Tàu do khác biệt về tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa dân tộc, nhất là trên cương vị của một chính khách, một người đứng đầu chính quyền.
Năm 1956, chính quyền Diệm đã buộc tất cả Hoa kiều phải nhập “quốc tịch”, nếu không sẽ bị trục xuất và đưa ra Đạo luật 53 cấm Hoa kiều tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn v.v. được ban hành vào tháng 9/1956.
Đạo luật này đã làm xáo trộn kinh tế chứ không có tác dụng gì nhiều, vì cả xã hội miền Nam sống nhờ tiền viện trợ và không có năng lực lao động sản xuất hay kinh doanh, do đó, nếu người Việt không làm thì người Hoa sẽ làm. Chính quyền lấy cớ là để tăng cường năng lực cạnh tranh, nhưng khi cả một xã hội, guồng máy chính trị và quân sự đều lệ thuộc toàn diện, chịu sự nuôi nấng của kẻ khác, thì thị trường kinh tế xã hội chắc chắn sẽ không có bất kỳ một sự cạnh tranh nào thật sự cả.
Một bộ phận người dân do thiếu hiểu biết, họ không hiểu rằng cả một nền kinh tế và cả xã hội sống nhờ vào viện trợ Mỹ, sống bám vào sự đùm bọc của mẫu quốc, sống ký sinh vào ngân sách ở Washington và tiền thuế công dân Mỹ, nên họ mãi ảo tưởng mình là “Hòn ngọc Viễn Đông” mà không biết lao động, không biết làm gì để xây dựng phát triển có ích cho xã hội, đến khi không còn ông Mỹ ở đó nữa, khi phải tự lực cánh sinh thì không biết làm gì. Nhiều người theo đó lộ ra hết sự thiểu năng và vô dụng, điều đó đã được phơi bày sau ngày giải phóng khi nhiều người thất nghiệp không làm gì, chỉ sống lây lất qua ngày, trông chờ tiền người thân ở Pháp – Mỹ gửi về.
Điều thú vị là nhiều chính khách thân thiện với Việt Nam ở Hoa Kỳ, từng tham gia tích cực phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, do nghe nhiều truyền thông một chiều nên họ cũng cho rằng phải chống, phải kìm hãm, kiềm chế, phải ngăn chặn đà phát triển của “kẻ thù” Trung Quốc, nhưng họ cho rằng dù vậy thì cũng không nên xâm lược Việt Nam để hoàn thành mục tiêu đó. Ông George McGovern là một trong những nhân vật như vậy.
George S. McGovern, ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân Chủ năm 1972, là một trong những người phê phán chủ chốt ở Quốc hội về cuộc chiến tranh Việt Nam. Quan điểm dưới đây được trích từ lời tuyên bố của MrGovern trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ ngày 4/2/1970, ủng hộ nghị quyết kêu gọi rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Trong bản tuyên bố, MrGovern phê phán chính sách “Việt Nam hóa” chiến tranh của Tổng thống Nixon, theo đó “màu da” lính người Mỹ sẽ được dần dần thay thế bằng “màu da” lính người Việt:
“Tôi thấy thật là ghê tởm về mặt chính trị và đạo lý khi tạo ra một nhóm tướng tá người Việt ở Sài Gòn chỉ biết sống dựa dẫm, rồi lại còn cho họ công nghệ quân sự giết người đề chống lại nhân dân của chính họ.
Việt Nam hóa về cơ bản là một nỗ lực làm cho yên lòng nhân dân Mỹ trong khi chính phủ của chúng ta lại phát động một cuộc chiến tranh không cần thiết và tàn ác bằng cách ủy quyền.
Một chính sách đối ngoại khôn ngoan của Mỹ là phải ngừng việc ra sức ra lệnh phải có kết quả của một cuộc đấu tranh chủ yếu ở địa phương, lôi cuốn nhiều nhóm người Việt Nam tham gia. Nếu chúng ta lo lắng đến “mối đe dọa” tương lai đối với Đông Nam Á từ Trung Quốc, chúng ta hãy có nhận thức chung đề nhận ra rằng một chế độ độc lập hùng mạnh dẫu cho có được tổ chức bởi Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Hà Nội cũng sẽ cung cấp một rào cản đáng tin cậy chống lại “chủ nghĩa đế quốc Trung Quốc” hơn là chế độ bù nhìn yếu đuối mà chúng ta duy trì để nắm quyền với cái giá 40.000 sinh mạng người Mỹ và hàng trăm ngàn sinh mạng người Việt Nam.”
Hồ sơ tiết lộ vai trò của Mỹ đối với chính quyền Ngô Đình Diệm
Trong Hồ sơ mật Lầu Năm Góc có hai hồ sơ đáng chú ý là câu: “Chúng ta phải thừa nhận rằng Nam Việt Nam, không giống như bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á, thực chất là một sáng tạo (creation) của Mỹ”.
Hồ sơ ghi rõ ngày 23 tháng 8 năm 1963, Trung tá CIA người Mỹ gốc Pháp Lucien Conein (từng hoạt động trong cuộc chiến tranh Đông Dương) gặp Dương Văn Minh và các tướng tá Sài Gòn chỉ đạo việc bắt giết gia đình nhà Ngô.
Trong một phần của Hồ sơ Lầu Năm Góc có tiêu đề “Các cam kết và chương trình của Kennedy”, ghi nhận cam kết của Hoa Kỳ về việc tạo ra một “nhà nước” Nam Việt Nam. Theo ghi nhận của những báo cáo này:
"Chúng ta phải lưu ý rằng Nam Việt Nam (không giống như bất kỳ quốc gia nào khác ở Đông Nam Á), về cơ bản là sự sáng tạo ra của Hoa Kỳ."
Trong một tiểu mục có tiêu đề “Cam kết đặc biệt của Hoa Kỳ đối với Việt Nam”, các bài báo đã nhấn mạnh một lần nữa vai trò của Hoa Kỳ:
"Nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ, thì trong những năm sau đó chính quyền Diệm và Nam Việt Nam hầu như chắc chắn không thể nào tồn tại."
Ngoài ra, còn có những thông tin được tiết lộ từ hồ sơ cho biết từ đâu chính giới Mỹ đi tới quyết định “Diệm phải đi!” (“Diem must go!”):
“Sự bất mãn với chế độ Diệm đã trở thành cấp bách trong tháng 8 năm 1963. Nhà nước (Hoa Kỳ) ngày 8/21/1963 đã ghi nhận rõ vấn đề này là nghiêm trọng. Chính phủ của Diệm đã xông vào ngôi chùa Phật giáo vào ngày hôm đó. Các vấn đề chưa được giải quyết giữa chính phủ và các nhà sư Phật giáo đã tiếp tục kể từ mùa xuân năm 1963, khi một số tu sĩ, trong đó có Quảng Đức, tự thiêu. Bà Nhu, em dâu của tổng thống, đã nói một cách khinh miệt rằng các nhà sư là “thịt nướng của Phật giáo” và hứa cung cấp thêm xăng. Các hành động đàn áp trong tháng 8 đã cho thấy rằng ‘Diệm phải đi’.”
“Tổng thống Kennedy đã nhận được một cuộc họp báo về ngày 27 tháng 8 năm 1963. William Colby, một trong các chuyên gia CIA về Việt Nam, trong một cuộc báo cáo liên quan của 2 vị tướng Nam Việt Nam ngày hôm trước. Họ đã báo cáo: ‘Tình hình cho một cuộc đảo chính là thuận lợi và dự báo nó sẽ kéo dài một tuần.’”
“Hai ngày sau đó, tổng thống (John F. Kennedy) đã gởi một tin nhắn đến Henry Cabot Lodge, Jr, đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Tin nhắn đã cho thấy rõ ràng rằng John F. Kennedy phê duyệt kế hoạch của các tướng Nam Việt Nam nhưng bảo lưu quyền, với thẩm quyền của một Tổng tư lệnh, để thay đổi quyết định vào phút cuối cùng.”
Theo bản báo cáo 1034 từ Sài Gòn gửi đến Washington vào ngày 19/9/1963, nằm trong các hồ sơ Lầu Năm Góc được giải mật và lưu trữ trong cơ quan NARA của chính phủ Hoa Kỳ, thì:
“Một báo cáo của CIA, chuẩn bị cho tổng thống (Hoa Kỳ) vào ngày 19/9/1963, chỉ ra rằng quân đội và tình báo người Mỹ ở miền Nam Việt Nam đã chia rẽ quan điểm về vấn đề có nên đảo chính hay không.”
Trang thứ hai của bản ghi còn cho biết: “Nhóm CIA ủng hộ cuộc đảo chính quan tâm nhất đến việc đưa lên một chính phủ mà họ có thể điều khiển, điều đó hợp lý hóa những khoản tiền khổng lồ mà họ đã bỏ ra.”
Như vậy, Hồ sơ Lầu Năm Góc đã trả lời rất rõ ràng những câu hỏi: chính quyền Diệm nói riêng và chính quyền Sài Gòn nói chung là gì? Ai tạo ra nó? Ai bóp chết nó?
Còn câu hỏi tại sao Mỹ muốn xâm lược miền Nam Việt Nam? Mỹ muốn chiếm giữ và kiểm soát nơi này để làm gì? Thì chưa có những lời giải nhất quán theo hồ sơ này. Yếu tố chống Trung Quốc tất nhiên là có, nhưng đó có phải là yếu tố xuyên suốt và nhất quán theo thời gian trong suốt cả cuộc chiến tranh này hay không thì đến nay vẫn chưa có lời giải rõ ràng và đầy đủ.
Theo Pentagon Papers (Hồ sơ Lầu Năm Góc), Phan Tuấn, History Channel, Tạp chí Phương Đông (Viện nghiên cứu phát triển Phương Đông), Khoa Việt Nam học (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn ĐHQG TPHCM)