Chiến tranh Việt Nam và đại chiến Tam giác sắt

Sau khi quân Giải phóng mở chiến dịch tiến công ở miền Đông Nam Bộ, đánh thắng trận Bình Giã, về cơ bản đã làm phá sản chiến lược chiến tranh giai đoạn này của Mỹ. Đến đây, kế hoạch Staley-Taylor đã không còn hiệu quả. Hoa Kỳ bắt đầu đề ra và thực hiện một số quyết định chiến lược mới.

Ngày 8 tháng 3 năm 1965, Thủy quân lục chiến Mỹ đổ quân xuống Đà Nẵng, kế hoạch Staley-Taylor chính thức chấm dứt. Chiến tranh Việt Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn Mỹ kéo đại quân đến Việt Nam trực tiếp xâm lược với chiến thuật tác chiến Tìm và Diệt của Đại tướng tổng tư lệnh Westmoreland.

Đứng trước nguy cơ phá sản của chế độ thực dân mới và khả năng sụp đổ của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ ở miền nam Việt Nam, người Mỹ sau đó đã liên tục tăng cường viện binh cho quân đội viễn chinh ở miền nam Việt Nam nhằm đốc thúc cuộc chiến tranh xâm lược, thay đổi chiến lược chiến tranh ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Trong năm 1965, các sư đoàn 1 Bộ binh (được biết nhiều với tên “Anh cả đỏ” – The Big Red One), sư đoàn 1 Kỵ binh Không vận, Lữ đoàn 1 thuộc sư đoàn 101 Kỵ binh Không vận, Lữ đoàn 3, sư đoàn 25 Bộ binh (được biết nhiều với tên “Tia chớp nhiệt đới” – Tropical Light), trung đoàn 11 Kỵ binh Thiết giáp v.v. lũ lượt kéo vào miền Nam Việt Nam. Trong đó, sư đoàn Anh cả đỏ và Tia chớp nhiệt đới là hai trong những sư đoàn chủ lực thiện chiến nhất thế giới.

Hạm đội 7, hạm đội mạnh nhất của Hải quân Hoa Kỳ, được mệnh danh “chúa tể đại dương”, tiến vào Biển Đông, xâm phạm vùng biển của Việt Nam, để trợ lực cho các lực lượng xâm lược trên bộ. 7 vạn lính Mỹ đóng ở Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, đảo Guam v.v., đều được sử dụng để hỗ trợ cho chiến trường Việt Nam.

Bị thất bại trong cuộc chiến tranh ủy nhiệm, Mỹ đã chuyển sang cuộc chiến tranh cục bộ, kéo quân đội vào trực tiếp xâm lược miền Nam Việt Nam và gây ra chiến tranh phá hoại rất ác liệt đối với miền Bắc.

Đại tướng William Westmoreland trong hồi ký A Soldier Reports (Tường trình của một quân nhân), do Doubleday xuất bản năm 1976, đã cho biết: “Tôi tin rằng nước Mỹ chưa bao giờ cho ra trận một lực lượng nào thiện chiến hơn lực lượng ở Việt Nam trong những năm 1966-1969”.

Hoa Kỳ còn áp lực được các quốc gia chư hầu (vassal states) khi đó như Hàn Quốc, Philippines, hay đồng minh như Australia, Thái Lan và New Zealand gửi quân đội đánh thuê cho Mỹ ở miền Nam Việt Nam, đổi chác các lợi ích chính trị, quân sự, kinh tế. Lực lượng viễn chinh Mỹ cũng phát triển nhanh, đến cuối năm 1965 đã lên đến hơn 20 vạn quân.

Theo hồ sơ Lầu Năm Góc (Pentagon Papers) do Daniel Ellsberg tung ra và Thời báo New York công bố của Bộ Quốc phòng Mỹ về Chiến tranh Việt Nam, được Việt Nam Thông Tấn Xã ấn hành một phần bằng tiếng Việt vào năm 1971 (Mỹ chính thức giải mật vào tháng 6 năm 2011), và nhà báo Pháp Giuglaris Marcel, một nhà nghiên cứu chuyên sâu về Nhật Bản và vùng Viễn Đông, trong sách Việt Nam, le jour de l’escalade (Việt Nam, ngày đầu leo thang) do NRF xuất bản, thì Vecler, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân bảo đảm với Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara: “Không có lý do gì chúng ta lại không thể thắng nếu đó là quyết tâm của chúng ta”.

Những nhân vật diều hâu trong giới cầm quyền Mỹ đã tin tưởng tuyệt đối rằng: “Cùng lắm trong vòng 18 tháng (cuối 1966), Mỹ sẽ chiến thắng, lúc đó Việt Cộng và Hà Nội sẽ phải chịu thua, chấm dứt kháng chiến. Và, trên bình diện thế giới, chúng ta sẽ chứng minh được cho các dân tộc thấy rằng chiến tranh cách mạng không đem lại kết quả gì, cuộc nổi dậy nào cũng có thể bị tiêu diệt”.

Mỹ dù không muốn trực tiếp ra tay, nhưng trước tình thế bất lợi họ buộc phải xuất quân để ngăn chặn thế thua, từng bước phản công giành lại quyền chủ động và chuyển bại thành thắng. Việc đưa quân viễn chinh Mỹ vào chiến đấu trên quy mô lớn là không chỉ giới hạn ở việc cứu nguy sự sụp đổ của chế độ thực dân trá hình mà chính là để giành thắng lợi quyết định, nhanh chóng đảo lộn thế cờ. Theo đó, Mỹ đề ra kế hoạch 3 giai đoạn và dự định giành thắng lợi trong vòng hai năm rưỡi:

Giai đoạn 1: Chặn lại đà thất bại, triển khai nhanh lực lượng.

Giai đoạn 2: Phản công chiến lược, tấn công mạnh vào chủ lực quân Giải phóng, và cướp lại vùng nông thôn.

Giai đoạn 3: Hoàn toàn tiêu diệt chủ lực quân Giải phóng, phá hoại căn cứ và hậu cần, tiếp tục bình định miền Nam.

Trước ý đồ chiến lược mới của Mỹ, Bộ chính trị, Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phân tích, đánh giá tình hình và thảo luận tìm đối sách, sau đó đưa ra nhận định, đại ý:

Hiện nay ngụy quân đã thất bại trên chiến trường, ngụy quyền rệu rã, chiến tranh đặc biệt đã thất bại, đế quốc Mỹ mất thế chủ động chiến lược, trong khi đó lực lượng ta đang nắm quyền chủ động chiến trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn ở cả ba vùng chiến lược (nông thôn, đô thị, miền núi). Chiến tranh càng mở rộng và kéo dài, thì mâu thuẫn càng bộc lộ và bị khoét sâu mà Nhà Trắng và Lầu Năm Góc không thể nào khắc phục được. Tiêu biểu là:

– Mâu thuẫn trầm trọng về tư tưởng chiến lược giữa mục đích muốn giấu mặt áp đặt chủ nghĩa thực dân mới (nghĩa là đứng ngoài làm chủ, bản thân không trực tiếp quản lý, chỉ huy và tham chiến), nhưng lại buộc phải tiến hành chiến tranh bằng đại quân viễn chinh Mỹ theo kiểu chủ nghĩa thực dân cũ (vì ngụy quân không biết đánh, nếu không đem quân vào đánh thì sẽ thua). Như vậy đây là một thất sách về chính trị và làm cho dư luận thế giới thấy rõ như ban ngày là Mỹ đã kéo đại binh vào tấn công Việt Nam, trực tiếp điều hành và tiến hành chiến tranh.

– Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm lược nhưng lại phải xây dựng cho được chính quyền và quân đội bản xứ để làm công cụ của Mỹ nhằm áp đặt chủ nghĩa thực dân mới. Trước đó, Mỹ chỉ lo mỗi việc là xây dựng, huấn luyện, trang bị, phát triển ngụy quân và ngụy quyền, và việc này đã rất khó khăn. Trong khi bây giờ chính phủ Washington phải thực hiện cả hai mục tiêu chiến lược này cùng một lúc, khó càng thêm khó.

– Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến tranh để giữ vững và củng cố chế độ ngụy quyền và hệ thống thuộc địa kiểu mới. Trong khi đó thực tế chiến cuộc cho thấy Mỹ càng tiến hành chiến tranh thì ngụy quyền và ngụy quân càng dựa dẫm vào Mỹ hơn, không còn bao nhiêu động lực chiến đấu, và càng lục đục, chia rẽ khi tranh nhau sự ưu ái của Mỹ. Còn hệ thống thuộc địa kiểu mới thì càng suy yếu và ngày càng hiện rõ những dấu hiệu của một thuộc địa kiểu cũ (người Mỹ và lính Mỹ tràn ngập miền Nam, Mỹ nắm thực quyền về quản lý, chỉ huy, trực tiếp tiến hành chiến tranh). Những thực trạng đó đồng thời cũng kéo theo sự suy yếu của chính Mỹ.

Từ đó, phương châm đấu tranh của Việt Nam được đề ra là: Đẩy mạnh đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công chiến lược: Quân sự – chính trị – ngoại giao.

Ngày 20/7/1965, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi:

        “Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn”.

    Nói chuyện với cán bộ cao cấp nghiên cứu Nghị quyết Trung ương lần thứ 12, chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định và tiên đoán:

        “Bây giờ Mỹ có 20 vạn quân ở miền Nam, nó có thể đưa thêm vào hơn nữa đến 30, 40, 50 vạn quân. Ta vẫn thắng, nhất định ta thắng. Ta nói như thế không phải để tuyên truyền, mà căn bản là như thế.”

Tự tin vào ưu thế quân đông với trên 20 vạn quân thiện chiến, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh tiến hành ngay chiến thuật tác chiến Tìm và Diệt của Tổng tư lệnh Liên quân, đại tướng William Westmoreland, với cuộc hành quân “Ánh sao sáng” vào căn cứ cách mạng ở Vạn Tường – Quảng Ngãi.

Tiếp đó Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 bằng nhiều cuộc hành quân vào “đất thánh Việt Cộng” như chiến khu Đ, chiến khu C (chiến khu Dương Minh Châu), và các chiến khu, địa điểm khác.

Nhưng nhờ chiến đấu dũng cảm, thông thạo địa hình quê nhà, và tài mưu trí sáng tạo, cũng như được sự phối hợp chiến đấu và tiếp viện ngày càng lớn từ miền Bắc, quân và dân miền Nam đã chiến đấu giành thắng lợi mở đầu ở Vạn Tường (ngày 18/8/1965). Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực quân Giải phóng lúc đó đang đóng ở Vạn Tường, cùng với du kích xã và quân dân địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của giặc Mỹ, diệt gần 1 ngàn lính, bắn cháy 22 xe tăng và xe thiết giáp, hạ 13 máy bay chiến đấu.

Hội nghị lần thứ 11 (3-1965), và Hội nghị lần thứ 12 (12-1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện tình hình do âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ gây ra, đã quyết định nhiều vấn đề quan trọng về chủ trương chiến lược, phương châm và biện pháp cách mạng trong giai đoạn mới, nêu cao quyết tâm động viên lực lượng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân: “Kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hoà bình, thống nhất nước nhà”.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương, Quân ủy Trung ương đã triển khai toàn diện các mặt công tác quân sự trên cả hai miền và đề ra 6 phương thức tác chiến cho các lực lượng vũ trang nhân dân miền Nam:

1)      Đẩy mạnh hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực tập trung trong những chiến dịch vừa và lớn, dưới hình thức tiến công hoặc chủ động phản công địch.

2)      Đẩy mạnh chiến tranh du kích đến trình độ cao.

3)      Đánh phá các căn cứ hậu cần, kho tàng, sân bay, hải cảng, cơ quan đầu não.

4)      Triệt phá các đường giao thông thuỷ bộ quan trọng, tạo thế bao vây, chia cắt địch.

5)      Đẩy mạnh hoạt động ở các đô thị.

6)       Tác chiến kết hợp với binh biến; triển khai công tác binh vận, ngụy vận trên quy mô chiến lược.

Từ ngày 2 đến ngày 6-5-1965, đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất được tổ chức tại một địa điểm trong vùng giải phóng miền Nam. Gần 150 chiến sĩ thi đua ưu tú thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, tự vệ và dân quân du kích từ Bến Hải đến Cà Mau về dự đại hội. Tại đại hội này, ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã quyết định tuyên dương 23 Anh hùng quân giải phóng, trong đó có 2 phụ nữ (Tạ Thị Kiều và Nguyễn Thị út), 4 là dân tộc ít người.

Tháng 3-1965, những tiểu đoàn quân Mỹ đầu tiên đổ bộ vào Đà Nẵng, Chu Lai đã bị các lực lượng dân quân du kích xung quanh căn cứ Mỹ đánh phá quấy rối và tiêu hao.

Ngày 27-5-1965, 1 đại đội bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam đã tập kích 1 đại đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ tại Núi Thành, tiêu diệt và làm bị thương 140 lính, thu toàn bộ vũ khí.

Trận Núi Thành khẳng định ý chí quyết tâm đánh Mỹ của quân và dân miền Nam, làm nức lòng nhân dân cả nước.

Ngày 18-8-1965, quân giải phóng khu V lại thắng lớn ở Vạn Tường (Bắc Quảng Ngãi). Một trung đoàn chủ lực cùng bộ đội địa phương và dân quân du kích đã đánh bại cuộc tiến công của một lực lượng lớn quân Mỹ gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, 1 tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép, 2 tiểu đoàn pháo 105 mi li mét, 6 tầu đổ bộ và 5 pháo hạm cùng hàng trăm máy bay chiến đấu. Đây là trận ra quân rầm rộ, hiệp đồng binh chủng đầu tiên của Mỹ trên một khu vực do họ lựa chọn.

Suốt một ngày chiến đấu quyết liệt, lực lượng vũ trang giải phóng đã đánh bại các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 lính Mỹ, bắn cháy, bắn hỏng nhiều máy bay, xe tăng và xe thiết giáp.

Trận Vạn Tường mở đầu cao trào diệt quân xâm lược Mỹ. Thắng lợi của trận Vạn Tường chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng thắng Mỹ về quân sự trong chiến tranh cục bộ, mặc dù họ chiếm ưu thế về số lượng, về hỏa lực và sức cơ động; nó mở đường cho các đơn vị chủ lực quân giải phóng tiếp tục phát triển thế tiến công tập trung đánh những trận tiêu diệt từng đơn vị quân cơ động Mỹ.

Sau các chiến thắng Núi Thành và Vạn Tường, trên chiến trường miền Nam dấy lên phong trào “tìm Mỹ mà đánh”,“lùng ngụy mà diệt”; những “vành đai diệt Mỹ” xuất hiện ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn) v.v. Hàng vạn dũng sĩ diệt Mỹ đã lập nên nhiều chiến công.

Tại Plâyme (Tây Nguyên), sau khi tiêu diệt chiến đoàn 3 thiết giáp ngụy, quân giải phóng buộc Sư đoàn kỵ binh không vận 1 Mỹ phải tham chiến. Bằng cách đánh táo bạo, mưu trí và dũng cảm, từ ngày 14 đến ngày 18-11-1965, lực lượng vũ trang Tây Nguyên loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 1.700 lính Mỹ, 1.274 lính ngụy, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, diệt gọn 1 chiến đoàn xe cơ giới, 1 tiểu đoàn bộ binh ngụy, phá 89 xe quân sự, 59 máy bay các loại (chủ yếu là máy bay lên thẳng). Sư đoàn kỵ binh bay “niềm hy vọng lớn nhất của lục quân Mỹ”, với chiến thuật “nhảy cóc”,“ứng viện giải vây” lần đầu tiên bị đánh bại trên chiến trường rừng núi Việt Nam.

Khả năng thắng Mỹ về quân sự trong chiến tranh cục bộ trở thành hiện thực ngay trong Đông-Xuân 1965-1966, bằng chiến thắng oanh liệt của quân và dân miền Nam đập tan cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất của Mỹ – ngụy.

Trong cuộc phản công này, quân đội Mỹ đã mở rộng 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân then chốt đánh vào miền Đông Nam Bộ, và đồng bằng khu V, Củ Chi, Bến Cát, Nam Phú Yên, Quảng Ngãi và Bình Định, nhằm giành lại thế chủ động trên chiến trường.

Quân và dân miền Nam chặn đánh quyết liệt trên mọi hướng. Những trận thắng lớn ở Nhà Đỏ Bông Trang (Thủ Dầu Một), ở Củ Chi (Sài Gòn), ở Bắc Sông Bé (Biên Hoà), thắng lợi của chiến dịch Bình Long, chiến thắng Cần Đâm, Cần Lệ (Thủ Dầu Một), ở Bà Rịa, những trận thắng địch ở Tây Nguyên, Bồng Sơn (Bắc Bình Định), ở Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), ở Phú Yên v.v. cùng với những trận diệt Mỹ ngay tại các căn cứ của địch và phong trào đấu tranh chính trị quyết liệt ở nông thôn, đô thị, phong trào chống phá “bình định”, đã làm cho Mỹ-ngụy tổn thất lớn, buộc phải kết thúc sớm cuộc phản công. Quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 104.000 quân địch.

Năm 1966, Bộ tư lệnh Lực lượng Dã chiến 2 của Mỹ huy động 19 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 1, lữ đoàn 173 nhảy dù, 2 lữ đoàn của sư đoàn 4 và sư đoàn 25, và 1 chiến đoàn đặc nhiệm trực thuộc quân đoàn 3 ngụy, mở chiến dịch Attleboro đánh vào khu vực Tam Giác Sắt mà họ thường gọi là một trong những “đất thánh Việt Cộng” hoặc “đất thánh cộng sản”, với trọng điểm là chiến khu Dương Minh Châu (chiến khu C), một trong những đầu não của cách mạng miền Nam.

Tam Giác Sắt là một khu vực rộng 310 km² nằm giữa sông Sài Gòn và đường 13, khoảng 40 km phía bắc trung tâm Sài Gòn, bao gồm địa đạo Củ Chi và hệ thống mật khu vòng đai kiên cố như Hố Bò, Bời Lời, Long Nguyên v.v. Về lực lượng Việt Nam tham chiến chống Mỹ trong chiến dịch này, theo các nguồn của Mỹ là bao gồm các trung đoàn 101, 271, 272 và 273.

Quân đội Mỹ-ngụy trong chiến dịch này đặt dưới quyền chỉ huy của hai tướng Guy S. Meloy, Jr. và William E. DePuy, là hai tướng dày dặn kinh nghiệm chiến trường trong Thế chiến II. Mục tiêu chính của cuộc hành quân là diệt bộ phận đầu não quân sự và chính trị của Trung ương cục miền Nam.

Sau hơn hai tháng giằng co, giao chiến ác liệt, lực lượng Việt Nam bị tổn thất khá nặng và bị đẩy lùi ra khỏi trận địa. Sau trận này, lực lượng Việt Nam đã rút lui về bên kia biên giới Việt Nam – Campuchia.

Mặc dù bị tổn thất, bị đẩy lui và thua về chiến thuật, nhưng ban chỉ huy đầu não của Mặt Trận đã kịp thời rút về bên kia biên giới Campuchia, tránh được tổn thất. Như vậy Mỹ đã không đạt được mục tiêu đề ra, do đó, trong chiến dịch này họ chỉ giành thắng lợi chiến thuật nhưng không giành được thắng lợi chiến lược.

Một trong những mục tiêu chính khác của Mỹ trong chiến dịch này là tìm cách kéo được quân Giải phóng ra đánh một trận lớn để gây tổn thương nguyên khí thật nặng, nhưng ý đồ đó của họ đã bị phía Việt Nam nhận ra nên đã tận dụng sự thông thạo địa hình, tác chiến linh hoạt theo chiến tranh du kích, tránh đánh lớn, khiến cho ý đồ đó không thành.

Mùa khô 1966-1967, Hoa Kỳ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ 2 với một lực lượng lớn gồm 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn chủ lực, khoảng 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng, thiết giáp, hàng chục vạn tấn bom đạn, hàng vạn tấn vũ khí hóa học, 2.540 khẩu pháo, 500 tàu xuồng chiến đấu.

Nếu tính cả các lực lượng ngụy, Thái Lan, Philippines, Guam, Nhật tham gia cuộc Chiến tranh Việt Nam thì số quân tham chiến trong cuộc phản công lần này lên tới 1 triệu 20 vạn, trong đó có 60 vạn quân Mỹ.

Hoa Kỳ tập trung đánh vào miền Đông Nam Bộ, trọng điểm là Tây Ninh, nhằm mục tiêu “tìm diệt” cơ quan lãnh đạo, chỉ huy Trung ương Cục, Bộ Chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc Giải phóng và các đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Họ mở 895 cuộc hành quân vào khu vực Tam giác sắt, trong đó có 3 cuộc hành quân then chốt: cuộc hành quân Attleboro với 3 vạn quân Mỹ đánh vào chiến khu C, cuộc hành quân Cedar Falls với 3 lữ đoàn Mỹ đánh vào Bến Súc – Củ Chi – Bến Cát, và cuộc hành quân lớn nhất Junction City, đánh vào khu vực đường 22 sát biên giới Việt Nam – Campuchia và khu vực Dầu Tiếng, Minh Thạnh, Bến Củi, có tất cả 7 lữ đoàn Mỹ và 2 chiến đoàn ngụy với quân số 4,5 vạn quân tham gia, sử dụng nhiều vũ khí và trang bị mới.

Trong cuộc phản công mùa khô này, quân và dân miền Nam đã mở hàng loạt trận phản công, đánh bại các cuộc hành quân của Mỹ-ngụy. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự vệ đã cùng toàn dân bám sát địch, đánh tiêu hao và tiêu diệt địch trên khắp các chiến trường.

Những trận đánh giặc ngay trên địa bàn hành quân của họ, ở trong vùng phía sau địch, ở hậu cứ và cơ quan đầu não của họ, những hoạt động mạnh ở các vùng đồng bằng, ở Tây Nguyên, ở đường 9 – Trị Thiên đã kéo địch ra mọi hướng, đánh bại 3 cuộc hành quân lớn và nhiều cuộc hành quân khác, loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 175.000 quân Mỹ, quân ngụy và chư hầu, 28 tiểu đoàn Mỹ, 21 tiểu đoàn và các đơn vị tương đương của ngụy và chư hầu bị đánh bại, khoảng 1.800 máy bay chiến đấu và 1.786 xe quân sự bị bắn cháy, bắn hỏng, khoảng 100 tàu chiến bị bắn cháy, bắn chìm.

Kết quả trong 2 mùa khô (1965-1966 và 1966-1967), quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến khoảng 15 vạn quân Mỹ và 14 vạn quân ngụy và chư hầu, làm thất bại một bước quan trọng cuộc chiến tranh cục bộ của Hoa Kỳ, làm cho thế trận của địch nao núng, tinh thần quân địch sút kém, hàng ngũ địch thêm mâu thuẫn.

Năm 1967, trong chiến dịch hành quân Cedar Falls, người Mỹ kéo gần 3 vạn quân tiếp tục đánh vào khu vực Tam Giác Sắt. Lần này quân Giải phóng đổi chiến lược, phân tán rút vào rừng và ẩn thân trong hệ thống địa đạo. Trong chiến dịch này, “lính chuột cống” (Tunnel Rat) được sử dụng lần đầu tiên để xâm nhập hầm trú ẩn và hệ thống công sự ngầm của quân Giải phóng.

Sau gần 1 tháng giằng co, mặc dù đã phá hủy nhiều đoạn công sự của Việt Nam, nhưng mục tiêu Hoa Kỳ đặt ra về cơ bản đã không đạt được. Trong khi đó, việc bảo vệ an toàn phần lớn căn cứ có thể coi là một thắng lợi chiến lược của quân kháng chiến Việt Nam.

Nhờ vào hệ thống địa đạo có quy mô rộng lớn và tổ chức tinh vi, lực lượng kháng chiến Việt Nam không cần mất nhiều công sức để bày binh bố trận hay tổ chức những trận đánh lớn đầy phiêu lưu mạo hiểm mà phía Mỹ vẫn phải rút quân, vì không rút quân thì cũng chết dần mòn trong sự bất lực.

Trước chiến dịch này còn có một cuộc hành quân khác của quân đội Mỹ nhằm vào vùng Củ Chi cũng với các mục tiêu quân sự tương tự và đã chịu thất bại theo cách tương tự, đó là chiến dịch Crimp năm 1966.

Nhìn chung, qua nhiều chiến dịch và trận đánh, hai phía đối địch đều có thắng có bại và trong nhiều trận cả hai bên đều tổn thất nặng nề. Nhưng về cơ bản Việt Nam đã giành chiến thắng quan trọng trước hai cuộc tấn công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ. Quân Việt đã chặn đứng và đánh lui hàng loạt cuộc hành quân bình định, Tìm và Diệt của Mỹ vào những khu vực họ gọi là “đất thánh Việt Cộng” (những vùng giải phóng ở Tây Ninh, Long An, Bình Dương, Củ Chi).

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Robert McNamara trước đây đã từng ủng hộ chính sách của tổng thống Lyndon B. Johnson đối với cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam thì nay cũng tỏ ra chán nản và nghi ngờ kết quả của chính sách leo thang của Mỹ ở Việt Nam. Tình hình miền Nam lúc đó như McNamara đánh giá là: “Các chính sách và chương trình của Mỹ ở Đông Dương đã phát triển theo một hướng mà chúng ta đã không lường trước được…. và sự thiệt hại về người, chính trị, xã hội và kinh tế là không thể tưởng tượng được. Chúng ta đã thất bại”.

Trung tuần tháng 8-1967, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã họp đại hội bất thường, thông qua Cương lĩnh chính trị nhằm mở rộng khối đoàn kết dân tộc và tăng tốc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Tiếp đó, trung tuần tháng 9-1967, đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ 2 đã họp để tổng kết phong trào đánh Mỹ, diệt ngụy trong 2 năm qua, rút ra những bài học kinh nghiệm nhằm tiếp tục chỉ đạo và đẩy mạnh phong trào kháng chiến. đại hội đã tuyên dương 47 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng. Tháng 12-1967, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã họp, ra Nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Nghị quyết của Bộ Chính trị sau đó được Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp vào tháng 1-1968 thông qua và trở thành Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân (1968) nhằm giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ.

(Tổng hợp)

Tin giả trong Chiến tranh Việt Nam

Chiến tranh tâm lý của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam

Là một quốc gia coi trọng khoa học chính trị, coi trọng trí tuệ mưu lược của nghệ thuật chiến tranh không tiếng súng, và coi trọng việc sử dụng những thủ thuật chính trị để giải quyết chiến tranh, Hoa Kỳ luôn nghiên cứu chuyên sâu, khai thác, tận dụng tất cả mọi khía cạnh, mọi vấn đề để giành phần thắng, và trong các loại hình chiến tranh mà Mỹ tiến hành luôn luôn được phụ trợ bằng chiến tranh tâm lý hoặc “tâm lý chiến” (psychological warfare – viết tắt: PSYWAR).

Chiến tranh tâm lý bao gồm những hành động tẩy não, nhồi sọ, loan truyền tin giả, bóp méo, bẻ cong tin thật, mua chuộc, chiêu dụ, lôi kéo những kẻ địch ở nước sở tại thân Mỹ, theo Mỹ, đứng về phía Mỹ hoặc hiệu quả hơn đó là gia nhập hẳn vào hàng ngũ của Mỹ, như chương trình Moolah mà Mỹ đã sử dụng hạn chế ở Trung Quốc trong thời Dân Quốc, thời kháng Nhật và sau đó sử dụng rộng rãi ở cả Nam Bắc Triều Tiên trong cuộc chiến tranh chống Trung Quốc trên chiến trường Bắc Triều Tiên. Chương trình Moolah khi được áp dụng ở Việt Nam đã nâng cấp thành chương trình Open Arms (Việt Nam hóa thành “Chiêu Hồi”), nhắm thẳng vào tâm lý mọi đối tượng của đối phương.

Thiếu tá Alan Byrne (trái) và trung tá Robert Laabs (phải), tham mưu trưởng Trung tâm Phát triển Chiến tranh tâm lý (PSYOP Development Center), Đoàn hành động Chiến tranh tâm lý 4 (4th PSYOP Group) ở Việt Nam năm 1968

Hình bìa sách giáo khoa hướng dẫn chiến tranh tâm lý do chính phủ Mỹ xuất bản năm 1968 trong Chiến tranh Việt Nam, có tên là MACV PSYOP Guide (Kim chỉ nam Chiến dịch Chiến tranh tâm lý – PSYOP). Lưu ý trong hình có hai người Việt trong nhà hàng đang đọc truyền đơn Chiêu Hồi.

Một trang trong kim chỉ nam chiến tranh tâm lý Chieu Hoi – The Winning Ticket (Chiêu Hồi – Tấm Vé Giành Chiến Thắng) do chính phủ Mỹ ấn hành năm 1970. Dịch: Một người bắt đầu nghĩ nếu được cho một cơ hội, anh ta có thể từ bỏ tranh đấu. Nhiều người quả thật từ bỏ tranh đấu, nếu họ có cơ hội.

 

Có 3 loại hình tuyên truyền mà Mỹ dùng để tạo nên các sản phẩm thông điệp, bao gồm tuyên truyền “Trắng” là một hình thức tuyên truyền công khai, chính thống, chính thức, tuyên truyền “Đen” và tuyên truyền “Xám” là hình thái tuyên truyền ngụy trang, che đậy, mờ ám, tiêu cực. Trắng, xám, đen không phải là sự phân loại về nội dung tuyên truyền, mà là sự phân loại về biện pháp, phương thức được sử dụng để thực hiện chiến dịch chuyển tải, phát tán những sản phẩm thông tin đó.

Chiến tranh tâm lý “Trắng” là loại hình tuyên truyền bằng những công bố, tuyên bố, hoặc động thái chính thức của chính phủ Mỹ, hoặc từ những thông tin được cung cấp bởi những nguồn có liên quan đến chính phủ Mỹ, cũng như những báo chí, truyền thông chính thống (mainstream media) tại Mỹ. Nó công khai cho thấy nó là thông tin từ phía Mỹ, từ chính quyền Mỹ.

Những cơ quan phụ trách tuyên truyền “Trắng” nhắm vào đối tượng độc giả, khán thính giả nước ngoài bao gồm: Bộ ngoại giao Hoa Kỳ, Sở Thông tin Hoa Kỳ (United States Information Agency – USIA), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (United States Agency for International Development – USAID), Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, và nhiều sở, bộ khác của chính phủ Hoa Kỳ.

Chiến tranh tâm lý “Xám”, là loại hình tuyên truyền bằng những nguồn tin mờ mịt, mơ hồ, không rõ ràng. Nguồn gốc thật (chính phủ Mỹ) không được tiết lộ tới những đối tượng độc giả, khán thính giả. Những nguồn tin được ngụy tạo như là một nguồn tin phi chính thống không phải từ chính phủ Mỹ, hoặc “trung lập” giả tạo, hoặc ngụy tạo là những nguồn từ phía thứ ba không thù địch với đối tượng mà chính phủ Mỹ muốn bôi nhọ.

Chiến tranh tâm lý Xám cũng có thể là những nguồn tin tuyên truyền cho góc nhìn, quan điểm của Hoa Kỳ, phục vụ cho lợi ích của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, có hại cho đối tượng mà Hoa Kỳ muốn bôi nhọ, mà không trực tiếp từ Hoa Kỳ, có thể từ những quốc gia “vệ tinh” của Mỹ, những quốc gia lệ thuộc Mỹ, những đồng minh lâu năm của Mỹ v.v. mà có bàn tay của Mỹ của trong đó. Có nhiều trường hợp những tác động, tham gia của phía Mỹ cũng không được tiết lộ.

Chiến tranh tâm lý “Đen”, là loại hình tuyên truyền từ những nguồn (quốc gia, chính phủ, đảng phái, phe nhóm, tổ chức, cá nhân v.v.) có thái độ thù địch với cộng đồng quốc tế nói chung. Lợi dụng hoặc là ngụy tạo những nguồn đó. Lợi ích của chính phủ Mỹ được khéo giấu đi và chính phủ Mỹ nếu cần sẽ bác bỏ trách nhiệm. Loại hình tâm lý chiến này thích hợp cho những kế hoạch chiến lược cao.

Để đạt được hiệu quả cao nhất 2 loại hình chiến thuật chiến tranh tâm lý overt (công khai) và covert (giấu kín) đều phải được chia cách ra làm 2 tổ riêng rẽ, biệt lập với nhau. Nhân viên tham gia chiến thuật overt không thể tham gia chiến thuật covert, và ngược lại. Họ không biết được nhiệm vụ của nhau.

Tấm hình của lính Mỹ Paul Sgroi chụp chuyên viên tâm lý chiến John C. Stermer đang rải truyền đơn từ trực thăng UH-1H (Huey) vào năm 1969.

Truyền đơn được rải xuống từ máy bay U-10

Đội phát loa chiến tranh tâm lý Mỹ-ngụy trên chiến trường Việt Nam

Ngay từ đầu thập niên 1950, khi Mỹ chỉ mới đứng sau và viện trợ cho Pháp xâm lược Đông Dương, chứ họ chưa tiến hành chiến tranh với Việt Nam, thì chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu trước, đề phòng trước, và đã cẩn thận cảnh báo về chiến tranh tâm lý của Mỹ và kêu gọi quân dân Việt Nam phải đề cao cảnh giác trước tâm lý chiến của Hoa Kỳ.

Trong thời gian đó chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài báo, phân tích, bình luận về các thủ đoạn và hình thức tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền dối trá của Mỹ, trong đó có 2 bài viết ấn tượng đó là bài “Tuyên truyền” viết ngày 25-5-1954 trên báo Nhân dân số 188 và bài “Chiến tranh nhồi sọ” viết ngày 25-7-1952 trên báo Cứu quốc số 2128.

Trong bài “Tuyên truyền”, Bác viết: “Nói tóm lại, chúng dùng đủ mọi cách, mọi dịp để tuyên truyền, để hòng phá hoại tâm lý và tinh thần của nhân dân ta; cũng như chúng dùng bom đạn để phá hoại mùa màng và giao thông của ta.” Cuối bài Bác nhấn mạnh ý chính: “Chúng ta phải đánh thắng địch về mặt tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đã đánh thắng địch về mặt quân sự!”

Trong bài “Chiến tranh nhồi sọ”, Bác viết: “Ở các nước, có hơn 400 cơ quan làm việc tuyên truyền cho Mỹ… Mỹ còn lập nhà thương, trường học, hội từ thiện, vân vân, ở các nước, để làm cơ quan tuyên truyền và ổ mật thám. Hiện nay, tại những vùng tạm bị (Pháp) chiếm ở nước ta, Mỹ đang ra sức xâm lược vǎn hoá để hủ hoá và gieo rắc bệnh phục Mỹ, thân Mỹ, sợ Mỹ vào nhân dân, nhất là vào thanh niên ở những vùng ấy. Đó là một điều mà cán bộ giáo dục và tuyên truyền ta phải đặc biệt chú ý và phải ra sức chống lại.”

Hình bìa truyện tranh “Is this tomorrow, America under communism” (Phải chăng đây là ngày mai, Hoa Kỳ dưới chủ nghĩa cộng sản).

Rất nhiều sách, truyện tâm lý chiến đã được xuất bản ở miền Nam Việt Nam. Tháng 7 năm 1967, 20 trang sách in màu, mật mã 2078, dưới tựa đề “Qua Cơn Ác Mộng” (The Chieu Hoi Story) được phát hành, truyện trình bày theo phong cách truyện tranh, hư cấu “nỗi niềm” của một “hồi chánh viên”, những “trải nghiệm ác mộng” dưới chế độ cộng sản ở vùng giải phóng và và lý do vì sao anh ta phải thoát ly cách mạng.

Tháng 10/1967, 20 trang sách với 12 hình chụp với tựa đề “Nhật ký của người Hồi Chánh” (Diary of a Returnee), mật mã 2169, được phát hành, truyện hư cấu theo hướng nội dung kể trên. Sách này còn liệt kê danh sách những chế độ đãi ngộ, tiền thưởng để chiêu dụ.

Năm 1955, Mỹ đài thọ cho chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập Nha Chiến tranh Tâm lý, người Mỹ chịu mọi chi phí. Năm 1965, cơ quan này đổi tên thành Cục Tâm lý chiến và sáp nhập vào Tổng cục chiến tranh chính trị.

Hoạt động của Nha Chiến tranh Tâm lý trong những vùng tạm chiếm ở miền Nam chủ yếu là tẩy não, nhồi sọ, tuyên truyền chống cách mạng, bôi nhọ người kháng chiến chống Mỹ, cáo buộc những lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, bịa đặt hoặc xuyên tạc tình hình ngoài Bắc, “chụp nón cối”, quy chụp “Việt Cộng nằm vùng”, “chứa chấp Cộng Sản” cho những nhóm đối lập với Mỹ-ngụy, nhất là trong giới tôn giáo, Phật giáo.

Các hoạt động này chủ yếu được thực hiện bằng những buổi truyền thanh (ví dụ: chương trình Dạ Lan, Nhạc Thời Chinh Chiến, Tiếng Ca Gửi Người Tiền Tuyến), truyền hình (ví dụ: chương trình Thép Súng), xuất bản (ví dụ: báo Chánh Đạo, báo Tiền Tuyến), chiếu phim (ví dụ: phim Chúng Tôi Muốn Sống do người Mỹ dàn dựng và sản xuất), văn nghệ (ví dụ: Biệt đoàn văn nghệ trung ương) …. Hai công cụ chính là Đài Phát thanh Quân đội và báo Chánh Đạo.

Áo tâm lý chiến. Trên áo là logo của chương trình Chiêu Hồi.

Những du kích phản bội nhận tiền thưởng sau khi dẫn binh lính Mỹ-ngụy tới kho vũ khí bí mật.

Hoạt động của nó trong những vùng giải phóng ở miền Nam và miền Bắc chủ yếu là kích động bất ổn, xúi giục, phao tin thất thiệt, loan truyền tin giả, xào nấu tin thật, tuyên truyền bôi nhọ chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, vu cáo những nhà lãnh đạo của VNDCCH, bịa đặt hoặc bóp méo tình hình trong Nam, kêu gọi lật đổ chế độ, tô hồng Mỹ-ngụy, tuyên truyền không trung thực về tình hình xã hội miền Nam, ca ngợi giả dối về hình ảnh một “Hòn ngọc Viễn Đông” “giàu mạnh”, “phồn vinh”, tuyên truyền về các khái niệm “tự do”, “dân chủ” theo định nghĩa và định hướng của bộ máy chính trị Hoa Kỳ và cỗ máy chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.

Các hoạt động này của nó chủ yếu bằng đài phát thanh “Tiếng nói Tự do”, “Mẹ Việt Nam”, “Gươm thiêng Ái quốc” (1965), “Tiếng nói Nam Bộ”, “Tiếng nói Khmer” và “Mặt trận Dân tộc Đông Dương”. Riêng 2 đài sau hoạt động chủ yếu nhằm gây chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia.

 

Các cơ quan chiến tranh tâm lý của Mỹ-ngụy hoạt động theo phong cách phát xít chống cộng kiểu Đức Quốc Xã, như Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Hitler đã tuyên bố đại ý: Sự thật là những gì không đúng sự thật được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, lúc đầu dân không nghe, còn bán tín bán nghi, nhưng lặp đi lặp lại mãi thì dân sẽ tin đó là sự thật.

Tuy nhiên kết quả thất bại của cuộc chiến Việt Nam và kết quả hạn chế của các hành động hậu chiến chống Việt Nam sau này, dù họ đã lặp đi lặp lại những lời lẽ tuyên truyền nhiều vạn lần từ sau cuộc chiến đến nay đã cho thấy rằng lý thuyết, quan điểm, cách làm này của Đức Quốc Xã và Mỹ-ngụy là không có nhiều hiệu quả thực tế.

Bích chương tuyên truyền chống Cộng Sản, chống Bolshevik của phát xít Đức Quốc Xã.

 

Các cơ quan liên quan đến ngành tâm lý chiến bao gồm:

Cục chính huấn, công tác chính của nó là tẩy não và nhồi sọ những thanh niên bị bắt lính. Cơ quan này đã sáng tác nhiều bài hát quân đội (ví dụ: “Hàng ngàn cánh tay đưa lên”, “Giặc từ miền Bắc vô đây”), bắt chước thể loại nhạc hùng ca chiến đấu của Việt Minh, để “lên dây cót” tâm lý, kích động tinh thần binh lính và đưa họ ra chiến trường tham chiến cho chính phủ Mỹ, đánh thay và đỡ đạn cho quân đội viễn chinh Mỹ.

Cục xã hội và Cục quân tiếp vụ, các chuyên viên và các nha tuyên úy lo việc “ru ngủ” các tầng lớp xã hội, bao gồm cả tôn giáo. Cung cấp đô la hoặc hàng hóa như thuốc lá, bơ, sữa cho binh lính và gia đình ở giá thấp hơn giá thị trường. Mở các hoạt động ngụy tạo từ thiện, bố thí tiền bạc và vật chất để quảng cáo, tiếp thị, quảng bá hình ảnh Diệm-Thiệu và “người bạn lớn Hoa Kỳ”.

Trường Đại học Chiến tranh Chính trị: Đào tạo các kỹ năng tẩy não, nhồi sọ của chiến tranh tâm lý kiểu Mỹ. Tổ chức hội luận, nghiên cứu kỹ thuật tẩy não, nhồi sọ các thanh niên miền Nam bị bắt lính, và chương trình tẩy não, nhồi sọ trong các quân trường. Thành lập từ năm 1956 dưới tên Trường Quân báo Tâm lý chiến Cây Mai. Năm 1964 đổi tên thành Trường Chiến tranh Chính trị. Năm 1966 đổi tên thành Trường Đại học Chiến tranh Chính trị và dời lên Đà Lạt. Trường đào tạo được 6 khóa sĩ quan rồi bị giải tán sau ngày 30/4/1975.

 

 

Truyền đơn SP-782

Truyền đơn 2310

Chiến dịch Tố Cộng

Trong chiến dịch “Tố Cộng”, ngoài những đàn áp bạo lực, bỏ tù, lưu đày, ám sát, dùng máy chém chặt đầu để khủng bố trắng và đàn áp người kháng chiến, Mỹ-Diệm cũng thực hiện chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn để mị dân trong một số khu vực. Tuy nhiên, chính những đồng bào không nằm trong hàng ngũ kháng chiến đã góp công rất lớn vào cuộc đấu tranh chống chiến tranh tâm lý.

Tại Quảng Trị, ngụy quyền chuẩn bị một bản danh sách “tội ác cộng sản” rồi bắt ông Lê Chí Khiêm trong ban trị sự hội Phật học lên đọc. Trước khi đọc ông nói: “Bản này không phải tự tay tôi viết ra, mà nói đây là tội ác của cộng sản thì chính tôi chưa bao giờ nghe và chưa bao giờ thấy, nhưng người ta viết ra bảo tôi đọc thì tôi xin đọc để bà con nghe”.

Hình tượng hơn là chuyện ở Phan Rí (Bình Thuận). Khi một quận trưởng muốn mị dân, cho tổ chức một cuộc tranh luận giữa ông ta với người dân địa phương về những cái tốt và cái xấu giữa phía kháng chiến và phía Mỹ-Diệm, ông Bộ Gạch người dân tộc Chăm đã đứng lên nói một điều không nằm trong các giáo trình tâm lý chiến mà người quận trưởng đã chuẩn bị sẵn từ trước: “Các ông có chín cái tốt và một cái xấu, còn cộng sản có chín cái xấu và một cái tốt. Các ông cái gì cũng tốt nhưng ở với dân xấu quá. Cộng sản cái gì cũng xấu nhưng ở với dân quá tốt. Các ông có làm gì đi nữa, lòng dân vẫn theo cộng sản và cuối cùng cộng sản vẫn thắng.”

Trong một đêm Tố Cộng ở Chợ Lớn, một ông cụ người Việt gốc Hoa đã nói: “Việt Cộng có nhiều cái xấu: Súng xấu, đạn xấu, quần áo xấu, chỉ có cái tốt là trong kháng chiến hồi đánh Tây đã sống chết để bảo vệ dân. Các ông thì có nhiều cái tốt: Súng tốt, xe cộ tốt, quần áo tốt, chỉ có cái xấu là giật của dân thôi”.

Người dân còn đặt nhiều câu hỏi làm cho những kẻ chỉ đạo các cuộc Tố Cộng ấp úng khó trả lời như: “Các ông nói cộng sản độc tài, nhưng chúng tôi không thấy cộng sản độc tài vì trong kháng chiến cộng sản kêu gọi đánh Tây gìanh độc lập mới có hòa bình, dân đói họ kêu gọi sản xuất để được no ấm.”, “Các ông nói cộng sản ‘cướp công kháng chiến’, nhưng lúc đánh Tây, các ông ở đâu, sao toàn thấy cộng sản?”, “Nói ‘quốc gia kháng chiến’ sao lại đi làm cho Tây?”.

Những câu hỏi đúng sự thật như vậy làm cho ban tổ chức thường xuyên bị “bí” không trả lời được. Nhiều lần họ phải giải tán lớp học. Một người chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng cấp trung ương ngụy quyền đã phải nói: “Đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không trả lời được”.

Hình truyền đơn SP-1352A – mặt trước

Truyền đơn ATF-088-71 – mặt trước và sau

 

“Thảm sát Mậu Thân Huế”

Ngoài chiến dịch chiến tranh tâm lý rộng lớn kể trên của Mỹ-Diệm, sau này Mỹ-Thiệu cũng thực hiện một chiến dịch chiến tranh tâm lý quy mô lớn sau trận đánh 25 ngày ở Huế trong sự kiện xuân Mậu Thân 1968.

Sau trận chiến 25 ngày, Mỹ-ngụy trong một sự kiện ở Huế mà nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân và nhiều cư dân Huế gọi là sự kiện “Hậu Mậu Thân” đã lùng sục trả thù, giết hại. Người dân Huế nào có thiện cảm, có giúp đỡ Mặt Trận dù chỉ là vài lon gạo, vài đồng tiền dành dụm, hay cả nhà có 1 người nào đó theo cách mạng, đều bị đem ra trả thù, hành quyết. Họ đã tẩy trắng Huế bằng bom đạn trong nỗ lực chiếm lại thành phố. Và sau khi đã chiếm lại thì họ ngăn chặn phóng viên vào tác nghiệp, đồng thời mở cuộc tổng trả thù quy mô lớn.

Một nhân chứng ở Huế, chị Nguyễn Thị Hoa khi trả lời phỏng vấn trong phần 7 của loạt phim tài liệu 13 phần Vietnam: A Television History (Việt Nam: Thiên lịch sử truyền hình), do đài PBS (Mỹ), WGBH Boston (Mỹ), CIT (Anh), Antenne-2 (Pháp) và LRE Production (Pháp) sản xuất và phát hành, đã cho biết: “Bắt đầu là chúng nó (Mỹ) dùng phi pháo. Chúng dội pháo vào khu vực chúng tôi sinh sống, san bằng nhà cửa, cây cối. Chúng bắn pháo vào nhà những khu vực quanh đó. Những nhà này bán xăng dầu nên khi pháo bắn thì cháy trụi. Tất cả người già, trẻ nhỏ, phụ nữ lánh nạn ở đây đều bị thiêu sống.”

Sau đó, Mỹ-ngụy gom lại xác những nạn nhân chiến tranh lại, trong đó phần lớn là những người dân bị chết bởi bom đạn Mỹ, những người dân bị chính họ tàn sát trả thù, những thi thể chiến binh Giải phóng và lính ngụy, cũng như những cộng sự của Mỹ, gom lại hết, rồi quay phim và chụp hình tuyên truyền giả dối đó là “nạn nhân thảm sát của Việt Cộng”, thậm chí sau đó một số kẻ viết thuê ở Sài Gòn còn nâng lên thành “hành quyết”, “chôn sống”, con số thì có những bài báo phóng đại lên đến “hàng triệu”.

Sau khi chiếm Huế, Mỹ-ngụy phong tỏa khu vực, ngăn cấm tất cả phóng viên nào muốn vào Huế kiểm chứng các “hố chôn tập thể”. Sau khi đã dàn dựng xong, họ mới cho các phóng viên báo chí ngụy quyền, hoặc chống cộng, hữu khuynh vào đưa tin, làm phóng sự về “tội ác Việt Cộng”, rồi sau đó mới hoàn toàn cho phép các phóng viên quốc tế, trung lập vào tác nghiệp.

Nhà văn Trần Thị Thu Vân (Nhã Ca) sau đó được chỉ đạo viết tiểu thuyết “Giải khăn sô cho Huế” theo phong cách tự truyện, một dạng “hồi ký ma” được hư cấu từ trí tưởng tượng phong phú của một nhà văn tâm lý chiến chuyên nghiệp lĩnh lương Mỹ để tuyên truyền bôi nhọ lực lượng kháng chiến.

Chiến dịch chiến tranh tâm lý này tuy đã thành công lừa gạt được một bộ nhận nhỏ, nhưng không lừa dối được nhiều người Việt Nam và người dân thế giới, bởi vì:

  • Chỉ nói suông, không bằng chứng, không có hình chụp, thước phim nào có những người lính Giải phóng trong đó. Trong tất cả các hình ảnh về tội ác chiến tranh ở Việt Nam thì những bức ảnh lính Mỹ-ngụy gây tội ác nào mà có lính Mỹ-ngụy trong đó thì được công nhận là tội ác Mỹ-ngụy. Còn những bức ảnh không có lính Mỹ-ngụy trong đó thì bị các cơ quan tâm lý chiến tuyên truyền thành “tội ác cộng sản”. Tất cả các bức ảnh được giới tâm lý chiến Sài Gòn và các thế lực chống cộng tuyên truyền xưa nay đều không có bất kỳ 1 hình nào có người lính Giải phóng trong đó, chỉ thấy nạn nhân cùng những lời bình chụp mũ, gán tội vô căn cứ, không bằng không chứng và giấu đi ai là kẻ thủ ác thật sự.
  • Không hợp thường lý và không có tiền lệ. Quân Giải phóng sống trong dân, sống nhờ vào dân, được dân nuôi giấu, che chở, thảm sát dân chính là tự sát, là tự tuyệt đường sống của quân mình.
  • Trái ngược với luật pháp Việt Nam, các nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng cũng như chính sách của Nhà nước, hay các tuyên thệ, quân luật, cách làm, các hành động lâu nay của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến lược của Việt Nam là chiến tranh nhân dân, với phương châm “quân với dân như cá với nước”. Mỹ-ngụy đã phải xây các trại tập trung như Ấp chiến lược để gom dân, dồn dân vào đó để tách dân ra khỏi quân, “tát nước bắt cá”. Các chỉ thị từ trên xuống quân đội thường xuyên nhấn mạnh “phải dựa vào dân”. Vì vậy những hành động gây tai tiếng, làm xấu hình ảnh trước nhân dân và dư luận quốc tế là không hợp lý. Thực tế trước và sau chiến dịch Mậu Thân thì sự ủng hộ của người dân đối với cách mạng vẫn vậy không lay chuyển.
  • Không phù hợp với các bằng chứng hay những lời kể từ các nhân chứng ở hiện trường, cũng như không được nhiều người trên thế giới tin tưởng, đề tài này không được các học giả xem là một đề tài nghiêm túc để đưa vào các tác phẩm, công trình nghiên cứu của họ. Nói chung thông tin này không phù hợp với các nguồn tin, sách báo, tài liệu quốc tế.
  • Xưa nay có nhiều phóng viên chiến trường như David Duncan, Robert Shaplen, nhà báo, nhà nhiếp ảnh người Pháp Marc Riboud, nhân viên Bộ quốc phòng Hoa Kỳ Townsend Hoopes và các nhà nghiên cứu độc lập như tiến sĩ Noam Chomsky, nhà kinh tế học Edward Herman, giáo sư tiến sĩ Gerath Porter, tiến sĩ Alje Vennema, sử gia Stanley Karnow, cựu phóng viên Bưu báo Washington (Washington Post) Don Lux, giáo sư sử học Larry Berman v.v. đều đã góp phần vạch trần chiến dịch thông tin bôi nhọ này của Mỹ-ngụy.

 

Truyền đơn dùng tiền bạc và lợi ích vật chất để chiêu dụ quân Giải phóng.

Truyền đơn 2990 – mặt sau. Chức vụ càng lớn, tiền thưởng càng nhiều.

Truyền đơn 2992

Truyền đơn 2993

Truyền đơn 7-377-68

Truyền đơn 7-617-68

 

 

Theo Thiếu Long Texas

Bức điện của BTTN Lê Duẩn gửi Trung ương cục miền Nam năm 1975

Đây là bức điện của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn gửi cho Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy miền Nam vào ngày 1/4/1975, truyền đạt nội dung Nghị quyết Bộ Chính trị họp ngày 31/3/1975.

Gửi: Anh Bảy Cường (LTS: Phạm Hùng), anh Sáu (LTS: Lê Đức Thọ), anh Tuấn (LTS: Văn Tiến Dũng),

Bộ Chính trị đã họp ngày 31/3/1975 nghe Quân ủy Trung ương báo cáo tình hình phát triển của cuộc tổng tiến công của ta trong ba tuần qua, đặc biệt trong thời gian gần đây.

Bộ Chính trị nhận định:

1. Tiếp theo thắng lợi lớn của ta ở khu IX và giải phóng tỉnh Phước Long ở miền Đông Nam Bộ, cuộc tổng tiến công chiến lược của ta trên thực tế đã bắt đầu với việc đánh chiếm Tây Nguyên và trong một thời gian rất ngắn đã giành được những thắng lợi cực kỳ to lớn.

Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã trên 35% sinh lực địch, tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt khoảng 40% các binh chủng kỹ thuật hiện đại, thu và phá hơn 40% cơ sở vật chất hậu cần, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng số dân vùng giải phóng lên gần 8 triệu.

Đặc biệt trong trận Đà Nẵng, đã thực hiện được kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng do có những nhân tố mới là: nhân dân căm phẫn địch cao độ chỉ chờ cơ hội là vùng dậy, đại bộ phận sĩ quan và binh lính địch mất hẳn tinh thần chiến đấu. QUÂN VÀ DÂN MẶT TRẬN QUẢNG – ĐÀ đã lập được một chiến công xuất sắc: chỉ trong 30 giờ từ khi nổ súng, với lực lượng ít hơn địch, đã kịp thời, táo bạo, tiến công và nổi dậy đánh chiếm căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của quân ngụy ở miền Nam.

Qua những chiến thắng nói trên, các lực lượng vũ trang ta đã lớn mạnh vượt bậc: bộ đội thương vong ít, tinh thần và trình độ chiến đấu được nâng lên rõ rệt; vũ khí, đạn dược tiêu hao không đáng kể, ta lại thu được một khối lượng rất lớn vũ khí, đạn dược của địch. Quân chủ lực, trong một thời gian ngắn, đã tăng lên gấp bội, có sức cơ động khắp các chiến trường.

Trong tình hình đó, Bộ Chính trị nhận định: về chiến lược, về lực lượng quân sự, chính trị, ta đã có sức mạnh áp đảo, địch đang đứng trước nguy cơ sụp đổ và diệt vong. Mỹ tỏ ra hoàn toàn bất lực, dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế của ngụy. Cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn – Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu.

2. Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ “một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp. Tập trung lực lượng lớn hơn nữa và những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc.

Phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược, kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra. Trên từng hướng và trong từng trận, phải tập trung lực lượng áp đảo, tiêu diệt gọn, làm tan rã nhanh quân địch, tận dụng thời cơ và thuận lợi mới mà dồn dập tiến công, phát triển thắng lợi.

Trước mắt – như trước đã định, nay cần làm nhanh hơn – gấp rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4 và áp sát Sài Gòn.

Đồng thời nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông – nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tổ chức sẵn sàng những đơn vị chủ lực được trang bị binh khí, kỹ thuật thật mạnh, để lúc thời cơ xuất hiện thì tức khắc đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm thành phố Sài Gòn.

Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thúc đẩy các lực lượng quân sự, chính trị của ra hành động mạnh bạo, khẩn trương, phát triển tiến công và nổi dậy, tiêu diệt chi khu, quận lỵ, phá banh từng mảng lớn hệ thống kìm kẹp của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng ở các khu vực trọng điểm.

3. Muốn thực hiện phương hướng chiến lược nói trên cho kịp thời gian, thì ngay bây giờ, cần vạch kế hoạch hành động táo bạo với lực lượng sẵn có tại chiến trường miền Đông. Quân ủy Trung ương đã quyết định nhanh chóng chuyển Quân đoàn 3 cùng các binh khí, kỹ thuật từ Tây Nguyên xuống, đồng thời ra lệnh đưa quân đoàn dự bị vào. Nhưng để tranh thủ thời gian, không nên chờ đợi lực lượng tăng cường đến thật đầy đủ, cũng cần tránh điều động quân không hợp lý, làm ảnh hưởng đến kế hoạch tiến hành chiến dịch.

4. Trong khi Trung ương Cục và Quân ủy Miền vẫn làm nhiệm vụ như hiện nay, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy mặt trận Sài Gòn để tập trung, thống nhất cao độ sự lãnh đạo và chỉ đạo đối với chiến trường trọng điểm này. Khi anh Sáu, anh Tuấn vào đến nơi thì các anh trao đổi ý kiến để thực hiện ngay.

5. Ngoài này, Bộ Chính trị sẽ tập trung lực lượng chỉ đạo và đã có những chỉ thị cần thiết cho toàn quân, cho các chiến trường và các ngành, các cấp để bảo đảm trận quyết chiến lịch sử này giành thắng lợi.

Tôi gửi đến các anh lời chào quyết thắng.

BA.

Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về Tổng hành dinh ngày 30/4/1975

 

TỔNG HÀNH DINH NGÀY 30-4-1975 (1)

Lời Tòa soạn Tạp chí Xưa & Nay: Vào dịp kỷ niệm 25 năm ngày Giải phóng miền Nam (1975-2000), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sẽ cho ra mắt bạn đọc cuốn hồi ức: “Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Nhân toàn bộ cuốn hồi ức được phát hành, được sự đồng ý của tác giả, chúng tôi xin trích một đoạn trong chương IX mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, đoạn viết về những động thái diễn ra tại Tổng hành dinh trong ngày 30-4-1975.

Ngày 30-4-1975.

Gần ba mươi năm qua, mà ngày lịch sử ấy vẫn hiện lên đậm nét trong ký ức, như mới hôm nào.

“Nhà con rồng” hôm nay hình như rạng rỡ hơn trong gió xuân ấm áp. Ngôi nhà cũ, thềm sân rộng và cả bốn con rồng đá chầu ở bậc lên xuống như tươi tắn hơn mọi ngày. Những cây ngọc lan tán lá sum suê, toả hương thơm ngát.

Sớm hơn thường lệ, tôi ngồi vào bàn làm việc ở Sở chỉ huy. Trên tấm bản đồ ở mặt bàn, các mũi tên đỏ đã tiến vào trung tâm thành phố. Tôi phác hoạ trong đầu một chương trình cho ngày hôm ấy, với bao nhiêu công việc phái làm: hội ý Bộ Chính trị, nắm thêm phản ứng của Mỹ, dự kiến các hoạt động quân sự, chính trị trong trường hợp chưa dứt điểm được ngay, chỉ đạo tác chiến và nổi dậy ở phần đất còn lại sau khi Sài Gòn giải phóng, điện động viên bộ đội, nhắc nhở chấp hành nghiêm các chính sách vào thành.

Bất giác, tôi nhớ lại ngày toàn thắng ở Điện Biên Phủ, ngày 7-5-1954. Lẽ tất nhiên ở đây có rất nhiều điểm khác. Thế nhưng, cũng cái không khí phấn khởi sôi nổi ở Sở chỉ huy, cũng những giờ phút nao nức đón tin vui từ phía trước điện về, những suy nghĩ về công việc ở cuối và sau chiến dịch. Và nhất là cũng cái cảm giác lâng lâng khó tả, vừa khẩn trương, sôi nổi, vừa đàng hoàng, chủ động, vừa lo lắng chờ đợi, vừa vui sướng, tự hào, lúc này không còn là của riêng ai trong ngày toàn thắng của dân tộc.

Anh Ba, anh Trường Chinh, anh Đồng cũng đến đây sớm hơn thường lệ. Các anh khác trong Bộ Chính trị lần lượt đến sau, đông đủ. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương họp theo dõi tình hình chiến trường Sài Gòn – Gia Định, thảo luận công việc và đón tin toàn thắng. Anh Cao Văn Khánh, trực ban ngày hôm ấy, túc trực tại phòng tác chiến, chốc chốc lại sang báo cáo tình hình mới nhất. Các mũi tiến công của quân ta phát triển rất nhanh về hướng trung tâm thành phố. Mục tiêu cuối cùng của chiến dịch đã tới gần, chỉ còn tính từng giờ. Tin đến thường cắt ngang cuộc họp, đang phát biểu phải dừng lại giữa chừng, nhưng mọi người đều vui vẻ chấp nhận.

Anh Khánh báo cáo: Đại sứ Mỹ Matin chuồn khỏi Sài Gòn lúc 4 giờ 15 phút sáng. Hy vọng của ông ta thoả hiệp, đàm phán với “Việt cộng” tan vỡ như bọt xà phòng.

Binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn II trong cánh quân phía đông của anh Lê Trọng Tấn đang vượt cầu xa lộ trên sông Đồng Nai, diệt ổ đề kháng của địch ở Thủ Đức phía bắc cầu Rạch Chiếc. Trận địa pháo của ta ở Nhơn Trạch đã bắn hơn 300 viên đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất. Các đơn vị đầu tiên đang tiến từ cầu Tân Cảng vào Sài Gòn. Quân đoàn IV tiến về Hố Nai. Địch liều mạng chống giữ. Ta tiêu diệt Hố Nai, đang tiến công sở chỉ huy Quân đoàn III nguỵ, chuẩn bị tiến vào nội đô.

Sư đoàn 10 Quân đoàn III đang tiến vào ngã tư Bảy Hiền.

Quân đoàn I đánh vào Lai Khê, phú Lộc, Lái Thiêu, đang tiến vào Gò Vấp; một cánh quân khác đánh địch từ cầu Bình Phước đến cầu Bình Triệu.

Đoàn 232 đang tiến về hướng Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát nguỵ.

Trên đường số 4, quân ta đã chiếm Thủ Thừa, thị xã Tân An.

Trung đoàn 1 và Trung đoàn 2 Gia Định áp sát bắc sân bay Tân Sơn Nhất, mở hành lang vào ngã tư Bảy Hiền. Bộ đội đặc công chiếm giữ cầu Rạch Chiếc, cầu xa lộ Biên Hoà.

Lực lượng vũ trang Biên Hòa phối hợp với bộ đội chủ lực giải phóng Nhơn Trạch. Thành Tuy Hạ.

Ở vùng ven đô và nội đô, nhân dân nổi dậy phối hợp với bộ đội tiến công địch. Ở nhiều quận, nhiều phường xóm, đồng bào vùng lên chiếm đồn bốt địch, trụ sở nguỵ quyền. Cờ cách mạng đã tung bay ở phường Tây Nhì, quận Phú Nhuận từ trưa ngày 29-4.

Một cảnh tượng điển hình của chiến tranh nhân dân Việt Nam diễn ra hết sức hào hùng. Tiến công kết hợp với nổi dậy. Quân sự, chính trị, binh vận giáp công. Sức mạnh tổng hợp của cách mạng áp đảo nguỵ quân, nguỵ quyền đang tan rã.

Trên hướng đồng bằng sông Cửu Long, các lực lượng vũ trang ta đã ém sẵn quanh các mục tiêu quan trọng. Ở Bạc Liêu, quân ta đã vào thị xã. Ở Sóc Trăng, ta đang tiến công thị xã và sân bay.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương trao đổi về những công việc cấp thiết. Thay mặt Bộ Chính trị, tôi điện vào chiến trường: … “ủy ban quân quản công bố ngay trên đài phát thanh mệnh lệnh đầu tiên. Nội dung:

a) Quân giải phóng tiến vào để giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định, hoàn thành công cuộc giải phóng miền Nam.

b) Quân đội nguỵ quyền Sài Gòn phải lập tức hạ vũ khí đầu hàng.

c) Tuyên bố giải tán chính quyền các cấp.

d) Kêu gọi đồng bào đứng dậy, cùng Quân giải phóng đập tan mọi sự chống cự của địch, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tính mạng, tài san của nhân dân, hoàn thành công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam thân yêu”.

Vừa theo dõi tin kỹ thuật của Cục 2, tôi vừa liên lạc bằng vô tuyến điện thoại tiếp sức với Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh. Các cánh quân của ta đang tiến rất nhanh. Địch đang trong tình trạng vô cùng nguy khốn.

10 giờ sáng. Đồng chí Nguyễn Thanh, trưởng phòng 70 vào báo cáo tin vừa nhận được: Theo Đài phát thanh Nhật Bản, Quân giải phóng miền Nam có xe tăng dẫn đầu đang tiến vào Sài Gòn. Mấy phút sau, có tin thêm: Dương Văn Minh đề nghị ngừng bắn để thương lượng.

Mọi người cùng nói: “Chỉ có đầu hàng vô điều kiện. Còn gì đâu mà thương lượng?!”.

Tôi viết ngay một bức điện, lệnh cho các cánh quân tiếp tục tiến công. Nội dung bức điện được đọc lên, tất cả đều nhất trí. Cùng lúc đó, Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh cũng điện cho các quân đoàn và đoàn 232 không vì có tin ấy mà dừng lại.

10 giờ 50 phút. Cục 2 báo cáo quân ta đã vào dinh Tổng thống nguỵ. Ngay sau đó, các đài phát thanh phương Tây cũng đưa tin này.

11 giờ 30 phút. Đồng chí Nguyễn Duy Phê, Cục phó Cục cơ yếu mang vào phòng họp một bức điện của anh Lê Trọng Tấn báo cáo: một đơn vị thuộc cánh quân phía đông đã cắm cờ lên dinh Độc Lập.

Mọi người vây quanh tấm bản đồ chiến sự. Tin từ các hướng tới tấp điện về. Năm cánh quân của ta hợp điểm giữa Sài Còn. Quân đoàn II chiếm dinh Tổng thống; Quân đoàn IV chiếm Bộ Quốc phòng, cảng Bạch Đằng và Đài phát thanh; Quân đoàn I chiếm Bộ Tổng Tham mưu và khu vực các bộ tư lệnh các binh chủng; Quân đoàn III chiếm sân bay Tân Sơn Nhất; Đoàn 232 chiếm Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát. Kế hoạch tác chiến chiến dịch Hồ Chí Minh đã hoàn thành thắng lợi.

Trong không khí hân hoan, hội nghị sôi nổi trao đổi về những biện pháp cuối cùng. Tôi điện ngay vào chiến trường thông báo ý kiến của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương: “… Có thể dùng Dương Văn Minh để kêu gọi các đơn vị của địch hạ vũ khí, nhưng không phải với tư cách Tổng thống mà với tư cách một người đã sang hàng ngũ nhân dân. Đã nhận tin ta cắm cờ lên dinh Độc Lập lúc 11 giờ. Các anh trong Bộ Chính trị rất vui, rất vui”

Bức điện gửi đi lúc 12 giờ 25 phút.

Hội nghị ngừng họp.

Các đồng chí lãnh đạo ra cả ngoài hành lang. Tiếng cười nói rộn ràng, vui vẻ. Phấn khởi, nghẹn ngào, xúc động đến trào nước mắt.

Anh Ba, các anh trong Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ai nấy đều nhớ đến Bác Hồ. Ước mơ nước nhà độc lập, thống nhất mà Bác hằng mong đã thành sự thật, nhưng Người đã đi xa! Đồng bào, chiến sĩ miền Nam không còn được đón Bác vào thăm. Mọi người nghĩ đến biết bao đồng chí, đồng đội, đồng bào đã ngã xuống, không được thấy giờ phút khải hoàn. Ngay trong chiến dịch cuối cùng, bao nhiêu cán bộ, chiến sĩ đã vĩnh viễn ra đi trước ngày toàn thắng.

Tôi chỉ thị cho Cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục Chính trị điện ngay cho Việt Nam Thông tấn xã và Đài Tiếng nói Việt Nam kịp thời truyền tin thắng lợi, và chuẩn bị viết thông cáo chiến thắng. Chỉ mười lăm phút sau, đài đã ngừng buổi phát thanh thường lệ, phát đi phát lại những dòng tin phấn khởi mà muôn vạn con tim Việt Nam đón đợi: chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Lẫn vào tiếng loa phóng thanh, tiếng reo hò, hoan hô chiến thắng vang dậy khắp phố phường.

12 giờ 50 phút.

Tại Sở chỉ huy, có mặt Thiếu tướng Cao Văn Khánh, Phó Tổng Tham mưu trưởng, Đại tá Lê Hữu Đức, Cục trưởng Cục tác chiến, Đại tá Nguyễn Trọng Yên và Thượng tá Phạm Chí Nhân, Cục trưởng và Phó Cục trưởng Cục Tuyên huấn. Không ai chú ý đến nghỉ ngơi, cơm nước. Được sống trong giờ phút lịch sử của dân tộc, ai cũng muốn được ghi lại hình ảnh kỷ niệm vô giá này Trước tấm bản đồ thành phố Sài Gòn – Gia Định, mọi người đứng dậy, chăm chú nhìn theo hướng tay tôi chỉ. Thượng uý Nguyễn Tiến Trỗ, cán bộ bảo vệ thường xuyên đi với tôi, nhà nhiếp ảnh nghiệp dư với chiếc máy ảnh hiệu Kiép, đã bấm liền ba kiểu ở góc độ thích hợp nhất.

Buổi chiều, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tiếp tục họp.

Mở đầu, Hội nghị nghe qua dây ghi âm tiếng nói đầu hàng của Tổng thống nguỵ Dương Văn Minh: “Tôi là Dương Văn Minh, Tổng thống của chính quyền Sài Gòn. Tôi kêu gọi bỏ vũ khí đầu hàng vô điều kiện Quân giải phóng, giải tán cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương và giao quyền cho Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam”.

Tiếp đó là đại biểu Quân giải phóng chấp nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh.

Hội nghị tiếp tục thảo luận về công việc sắp tới và nêu lên những vấn đề sẽ bàn trong cuộc họp Bộ Chính trị ngày 3-5, chuẩn bị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp hội nghị toàn thể.

Gần cuối buổi họp, mọi người nghe đọc hai bức điện của các anh Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng vừa nhận được, trong đó các anh nói rõ: Dương Văn Minh đã đầu hàng, các cánh quân của ta tiếp tục phát triển theo kế hoạch. Ta kêu gọi quân địch nộp vũ khí… Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long sôi sục nổi dậy, lật đổ nguỵ quyền, lập chính quyền cách mạng.

Hội nghị nhất trí gửi ra phía trước bức điện khen: “… Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhiệt liệt khen ngợi quân và dân Sài Gòn – Gia Định, khen ngợi toàn thể cán bộ và chiến sĩ, đảng viên và đoàn viên thuộc các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội đặc biệt tinh nhuệ, dân quân tự vệ đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, lập chiến công chói lọi, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc nguỵ quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định, đưa chiến dịch mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng.

Toàn thể các đồng chí hãy nêu cao tinh thần quyết thắng, cùng đồng bào tiếp tục tiến công và nổi dậy, giải phóng hoàn toàn miền Nam thân yêu của Tổ quốc”(1).

Các anh trong Bộ Chính trị ra về. Các đồng chí trong Thường trực Quân ủy ngồi lại trao đổi, chuẩn bị cho cuộc họp của Quân ủy Trung ương dự định tiến hành vào ngày 2-5. Tôi nhắc thêm một số công tác cần chú ý làm thật tốt, nhất là việc quản lý vùng mới giải phóng, đặc biệt các thành phố lớn, vừa xây dựng chính quyền cách mạng vừa truy quét tàn binh, bắt giữ bọn phản động đầu sỏ, giữ vững trật tự trị an, bảo vệ tài sản, tính mạng của dân và tài sản công cộng, ổn định đời sống. Mỗi cán bộ, chiến sĩ phải là một cán bộ dân vận, biết phát động nhân dân cùng với bộ đội và các lực lượng cách mạng làm chủ địa bàn. Tôi cũng lưu ý Bộ Tổng Tham mưu giải quyết số quân địch ở đồng bằng sông Cửu Long và các đảo Côn Sơn, Phú Quốc, đón anh chị em tù chính trị trở về. Việc xây dựng và điều chỉnh lực lượng trong điều kiện đất nước thống nhất và số lượng rất lớn trang bị kỹ thuật của địch vừa thu được cũng phải khẩn trương nghiên cứu đề xuất với Bộ Chính trị và Quân ủy.

Mặt trời đã khuất bóng sau rặng cây xà cừ trên đường Hoàng Diệu. Hà Nội đã lên đèn.

Còn lại một mình trong phòng làm việc với niềm vui náo nức, mà sao nước mắt tôi cứ trào ra.

“Giá như còn Bác…”.

Tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự của Bác đã mang về thắng lợi trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Câu thơ xuân “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” đã vạch đường đi nước bước để có thắng lợi hôm nay.

Tôi lên xe đi một vòng quanh Hà Nội. Cả một rừng cờ hoa dậy lên tự lúc nào. Người đi chật phố, chật đường, vui như trảy hội. Đêm nay, Thủ đô đốt pháo hoa mừng toàn thắng. Đêm nay, Hà Nội, cả nước vui với Sài Gòn, vui với miền Nam.

Trở lại cửa tây, tôi vào Sở chỉ huy tiếp tục làm việc.

Hình ảnh các anh lãnh đạo, chỉ huy bộ đội ở chiến trường lúc này hiện về rõ nét. Chắc các anh đã nhiều đêm không ngủ. Chắc các anh cũng hân hoan, xúc động như chúng tôi ở ngoài này. Dưới sự chỉ huy của các anh, quân ta đã “tiến vào Sài Gòn!” ca vang câu hát: “Đồng bào ơi, ta đã về đây” của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, như ngày nào bộ đội ta từ năm cửa ô tiến về giải phóng Thủ đô Hà Nội, ca vang bài hát của nhạc sĩ Văn Cao.

Trong điện gửi anh Văn Tiến Dũng và các đồng chí trong Bộ Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh, thay mặt Quân ủy Trung ương, tôi tuyên dương công trạng các lực lượng vũ trang ta đã cùng đồng bào Tổng tiến công và nổi dậy, giải phóng Sài Gòn – Gia Định, giành thắng lợi vang dội, làm nức lòng quân và dân cả nước và bè bạn năm châu.

Một khuôn mặt trìu mến, thân quen chợt hiện lên trong tôi: Trung tướng Lê Trọng Tấn, người chỉ huy cánh quân đầu tiên tiến vào dinh Tổng thống nguỵ quyền. Tôi viết ngay một bức điện vượt ra ngoài khuôn phép thông thường về quân sự: “18 giờ 30 phút. Anh Tấn ơi! Làm ăn tốt quá! Phấn khởi quá! Chúc các anh rất khoẻ và chuyển lời mừng chiến thắng của mình cho các tướng trong đó. Ký tên: Văn”.

Sau này được biết: Khi nghe báo cáo quân ta đã chiếm dinh Độc Lập, Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng, cả Sở chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh reo mừng trong niềm vui chiến thắng. Không còn là chuyện bất ngờ mà ai nấy đều giàn giụa nước mắt, siết chặt tay nhau, phấn khởi, tự hào. Các anh Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng xúc động ôm hôn mọi người. Anh Đinh Đức Thiện, vui tính là thế, mà giờ lại là người khóc ra tiếng to nhất. Anh Trần Văn Trà, đôi mắt đỏ hoe, nghẹn ngào sung sướng. Riêng anh Phạm Hùng, mở phanh chiếc áo bà ba, vừa cười to vừa bình luận sảng khoái, vừa ra lệnh chuẩn bị tiếp quản Sài Gòn.

Mấy ngày sau, tôi cùng anh Ba vào thăm miền Nam hoàn toàn giải phóng. Quên sao được niềm vui mừng phấn khởi khi đặt chân trở lại trên thành phố mang tên Bác, xúc cảm trước cảnh hân hoan mừng chiến thắng của đồng bào, đồng chí trên phố phường còn nguyên vẹn, tưởng như được đón Bác trở về từ nơi Người đã ra đi.

Chúng tôi về thăm các cơ sở cách mạng ở Sài Gòn, Biên Hoà, Cần Thơ, Rạch Giá, những chiếc nôi đã nuôi dưỡng, chở che cho bao cán bộ kiên trung đi làm cách mạng không hẹn có ngày về. Vui mừng, xúc động, anh Ba giới thiệu các Ba, các Má đã nuôi anh những ngày hoạt động bí mật trong lòng địch. Trước cảnh cũ người xưa, tôi bồi hồi nhớ lại những lần vào Nam thực hiện các nhiệm vụ cách mạng được giao. Năm 1929, với tư cách phái viên của Tổng bộ Tân Việt và nhóm cộng sản trong Tân Việt, tôi đến Sài Gòn với nhiệm vụ chuyển kỳ bộ Tân Việt sang hàng ngũ cộng sản. Sau đó, năm 1935, tôi lại vào gặp nhóm đảng viên hoạt động nửa công khai, nhận tài liệu của Đông Dương Đại hội mang ra Hà Nội. Tìm đến các cơ sở cũ thì hầu hết đã không còn nữa. Nhiều ân nhân của cách mạng không còn được thấy ngày khải hoàn của dân tộc.

Tiếp đó, tôi đến thăm các binh đoàn chủ lực, các đơn vị đặc công, biệt động, các đơn vị bộ đội địa phương. Những “Anh bộ đội Cụ Hồ” vừa làm nên kỳ tích, nhưng hết sức gian dị, thân tình. Tôi khen ngợi chiến công của cán bộ, chiến sĩ, lòng bùi ngùi thương tiếc bao đồng chí, đồng đội vừa ngã xuống để Tổ quốc trường tồn.

Tôi cũng đã đến quan sát Bộ Tổng Tham mưu quân đội nguỵ. Tại phòng làm việc của Tổng Tham mưu trưởng, tôi chú ý đến tờ lịch ngày 28 tháng 4 còn bóc dở. Trong phòng triển lãm vũ khí, nhiều loại vũ khí trang bị hiện đại đều được trưng bày. Trên một tấm bản đồ Đông Dương chi chít những dấu chấm xanh, đỏ, đánh dấu những nơi mà vũ khí, trang bị điện tử phát hiện các căn cứ của ta, nhất là trên đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn. Cảm tưởng sâu sắc nhất của tôi là: vũ khí kỹ thuật Mỹ dù hiện đại đến đâu cũng không thể cứu kẻ thù khỏi thất bại. Quyết định thắng lợi là con người Việt Nam yêu nước, dũng cảm, thông minh.

(2) Lê Duẩn: Thư vào Nam, Sđd, tr. 395.
(1) Tiêu đề do Tạp chí Xưa & Nay đặt. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 74, tháng 4 năm 2000, tr. 4-6. Nội dung bài này được trích đoạn từ hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng hành dinh trong mùa Xuân toàn thắng, Sđd (B.T).

Theo: Tổng hành dinh trong mùa xuân toàn thắng / Tạp chí Xưa & Nay / Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp với sử học Việt Nam / Quân sử Việt Nam

Tết Mậu Thân – Trận quyết chiến chiến lược lịch sử – Đại tướng Võ Nguyên Giáp

TẾT MẬU THÂN – TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC LỊCH SỬ (1)

Cách đây 30 năm, đúng vào lúc giao thừa Tết Mậu Thân, hưởng ứng hiệu lệnh của Bộ Thống soái tối cao đứng đầu là Bác Hồ kính yêu, toàn quân và toàn dân ta ở miền Nam đã mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy mà lúc bấy giờ đề ra là tổng công kích – tổng khởi nghĩa, đồng loạt đánh vào hầu hết các thành phố lớn, đặc biệt là Sài Gòn và Huế, các thị xã, thị trấn, chi khu, quận lỵ, vào các sân bay và căn cứ hậu cần của Mỹ, trên toàn chiến trường miền Nam Việt Nam.

Cuộc tiến công táo bạo và bất ngờ đã tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực cấp cao của Mỹ – ngụy, đánh chiếm những mục tiêu hiểm yếu như Đài Phát thanh, Tòa Đại sứ Mỹ, đánh vào Bộ Tổng Tham mưu, Tổng Nha cảnh sát ngụy ở Sài Gòn, đánh vào nội thành và làm chủ trong một thời gian dài cố đô Huế, phá hủy một khối lượng quan trọng các phương tiện chiến tranh và cơ sở hậu cần hiện đại nhất của Mỹ – ngụy.

Bất ngờ về thời gian: lúc giao thừa.

Bất ngờ về mục tiêu: các đô thị và các căn cứ quan trọng.

Bất ngờ về quy mô: không phải đánh vào vài chục điểm nhỏ như phán đoán của tình báo địch, mà đánh đồng loạt, trên khắp chiến trường miền Nam.

Cuộc Tổng tiến công đã diễn ra trong tình hình địch đã leo thang đến đỉnh cao: trên 50 vạn quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu, cùng với đội quân được hiện đại hóa của ngụy, tất cả là 1 triệu 20 vạn quân; và trong khi tướng Oétmôlen đang chuẩn bị đợt tấn công thứ ba sau những trận tiến công thất bại của quân đội Mỹ trong hai mùa khô qua, trước mắt thì đang khẩn trương cứu nguy cho căn cứ Khe Sanh, ở đó 2/5 lực lượng chiến đấu Mỹ đã bị ta vây hãm và tiến đánh trong một cuộc nghi binh tài giỏi nhằm đánh lạc hướng quân địch.

Như nhận định của một nhà lịch sử quân sự Mỹ, cuộc tấn công đã gây cho Mỹ một cú “choáng đột ngột”, đã làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của Mỹ. Nó đã làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam mà còn làm rung chuyển Lầu Năm Góc và cả nước Mỹ. Cuộc tổng tấn công đã đưa cảnh tượng chiến tranh vào mỗi gia đình Mỹ, vào Quốc hội Mỹ. Trong phút chốc, nhân dân Mỹ bừng tỉnh, thấy nước Mỹ đang lao vào một cuộc chiến tranh đẫm máu, đang lún sâu vào đường hầm không có lối thoát; cao trào chống chiến tranh ở Mỹ lan rộng và lên cao chưa từng có. Té ra những câu chuyện “chiến thắng ở Việt Nam” mà Lầu Năm Góc thường tung ra đều là những điều dối trá. Cả thế giới theo dõi, khâm phục ý chí giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, phong trào ủng hộ nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của Mỹ phát triển mạnh.

Thắng lợi quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân là đã làm lay chuyển ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Tổng thống Giônxơn phải xuống thang chiến tranh, chịu ngồi lại đàm phán với ta ở Pari, thay Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Giônxơn thôi không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ hai.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu thân về cơ bản đã đánh bại chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, mở ra khả năng cho ta thực hiện chiến lược “đánh cho Mỹ cút”, để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giành lại độc lập thống nhất hoàn toàn cho Tổ quốc Việt Nam.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân có được những kỳ tích ấy là do cả nột quá trình đấu tranh của đồng bào và chiến sĩ trên cả hai miền Nam – Bắc, do ta đã có một kế hoạch chuẩn bị gian khổ, kiên trì và mưu trí trên chiến trường miền Nam trong nhiều tháng, có nơi hàng năm như ở Sài Gòn, Huế… Do vậy khi nổ súng tấn công thì các lực lượng tinh nhuệ của ta đã ém sẵn ở các vị trí hiểm yếu của địch, ở hầu khắp các vùng nội thành.

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công Mậu Thân thật là to lớn. Song, trong khi đánh giá cao thắng lợi, tại cuộc hội thảo khoa học này, chúng ta không thể không nói đến một số khuyết điểm, mà sau này Trung ương Đảng ta cũng đã nêu rõ. Do nhận thức và đánh giá chưa thật sát đúng tình hình, nên lúc đầu ta đã đề ra chủ trương tổng khởi nghĩa ngay trong lúc chiến tranh đang diễn quyết liệt, địch còn khá mạnh là không thực tế; cuộc tổng không khởi nghĩa đã không diễn ra. Ta đã kéo dài cuộc tổng tiến công vào các đô thị trong khi yếu tố bất ngờ không còn, địch đã củng cố. Ta đã chậm chuyển hướng về nông thôn rộng lớn, ở đó một thời gian quân địch hầu như bị tan vỡ từng mảng, trước những cuộc nổi dậy của nhân dân. Khuyết điểm, sai lầm ấy đã gây cho ta những tổn thất và khó khăn về sau.

Tổ quốc mãi mãi ghi nhớ tấm gương nghĩa liệt của biết bao anh hùng liệt sĩ, của bộ đội biệt động và đặc công, bộ đội chủ lực, địa phương và du kích, của các cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng, của đồng bào yêu nước đã có công lớn tham gia chiến đấu và nổi dậy, hưởng ứng và ủng hộ cuộc tổng tiến công để cho chúng ta giành được thắng lợi to lớn nói trên.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đánh dấu một bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam. Lần đầu tiên, ta đã tổ chức và phát động một cuộc tấn công đồng loạt trên khắp chiến trường rộng lớn và các sào huyệt của địch mà vẫn giữ được bất ngờ đến giờ nổ súng.

Bài học lớn là: biết dựa vào dân, biết kết hợp chủ nghĩa anh hùng cách mạng vô song của nhân dân Việt Nam với trí tuệ sáng tạo Việt Nam, từ Bộ thống soái tối cao cho đến đông đảo quần chúng, thì sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam trở nên một sức mạnh vô tận, có thể làm nên những chiến công hiển hách, những kỳ tích phi thường, tưởng chừng như không thể làm được.

Diễn biến cuộc Tổng tiến công còn cho thấy: trong chiến tranh, thực tiễn địch ta biến chuyển mau lẹ, biết địch biết ta không những lúc đầu mà phải bám sát tình hình trong cả quá trình chuyển biến. Xuất phát từ thực tiễn luôn luôn vận động, với tinh thần tích cực, chỉ động và cơ động, linh hoạt, tìm ra quy luật, kịp thời điều chỉnh chủ trương cho sát đúng, luôn hành động đúng quy luật thì nhất định tránh được khuyết điểm, giành được thắng lợi to lớn hơn, trọn vẹn hơn.

Ngày nay, trong quá tình xây dựng, những bài học kinh nghiệm của trận quyết chiến chiến lược Mậu Thân vẫn còn có giá trị lớn.

Chúng ta hãy đem tinh thần cách mạng tiến công của Tết Mậu Thân vào công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Hãy luôn phát huy ý chí và quyết tâm cao, phối hợp với trí tuệ sáng tạo tuyệt vời của con người Việt Nam trong cuộc chiến đấu mới chống nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho nhân dân lao động, cho toàn dân.

Hãy luôn xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, dựa vào dân, tin tưởng ở dân, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, kịp thời đề ra những bước đi, những quyết sách phù hợp với quy luật của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam ta nhất định vượt qua mọi thử thách, tranh thủ mọi vận hội, tiến lên giành thắng lợi ngày càng to lớn, hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, đáp ứng lòng mong ước của Bác Hồ kính yêu.

(1) Tham luận của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Hội thảo Khoa học “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968” do Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12-3-1998. Bài đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 49, háng 3 năm 1998, tr. 7-8.

Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay / Quân sử Việt Nam

Chiến tranh Việt Nam: Miền Nam chia lửa với miền Bắc kiên cường

Ngay từ những ngày đế quốc Mỹ đánh bom miền Bắc, quân và dân miền Nam rất đau xót, nôn nóng tìm cách trả thù cho đồng bào miền Bắc.

Tháng 8-1965, tôi đang công tác ở Ô Môn (Cần Thơ). Các đồng chí cán bộ xung quanh cơ quan tỉnh chất vấn tôi rất dữ dội về việc “Tại sao giặc Mỹ hỗn láo đánh miền Bắc mà ta trừng trị kém như vậy?”. Số là cũng vào dịp đó, báo chí phương Tây nói nhiều đến tên lửa SAM của Liên Xô giúp ta. Chúng đề cao tên lửa này, chắc để nói máy bay chúng bị rớt là do tên lửa chứ không phải từ tầng tầng lớp lớp vũ khí phòng không các loại của ta. Lý lẽ của anh em ta và lời bà con ta là: “Có tên lửa SAM thì có thể hạ bất cứ máy bay nào, sao cứ để chúng lộng hành như vậy?”. Các đồng chí và đồng bào đâu có hiểu hết khó khăn của chúng ta lúc đó, song tấm lòng thì thật đáng quý.

Cuối năm 1965, Sư đoàn 9 đã tổ chức trận pháo kích vào sân bay Biên Hòa tiêu diệt hàng trăm máy bay chiến đấu của Mỹ. Khẩu đội pháo do chiến sĩ Mai Tôi phụ trách đã vừa đánh vừa động viên nhau: “Hãy trả thù cho đồng bào miền Bắc”. Quân và dân miền Nam muốn ngăn chặn tội ác của giặc Mỹ ngay tại dinh lũy của tội ác.

Cuối năm 1966, máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội rất ác liệt. Quân và dân miền Nam rất lo ngại. Từ căn cứ Vườn Thơm (Long An), Lê Minh Xuân, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Bình Tân (Sài Gòn – Gia Định) quyết định mời Nguyễn Văn Kịp (Đồng Đen) phụ trách lực lượng biệt động F100 của nội đô, bàn cách đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Anh nói:

– Từ đây bọn chúng bay ra Bắc giết hại đồng bào ta. Vậy mà ta để chúng yên ổn, ngang nhiên phá hoại? Phải đánh dập đầu chúng ngay tại sân bay Tân Sơn Nhất.

Thế là một trận đánh “Trả thù cho Hà Nội” đã được tổ chức và đánh thắng. Hàng trăm máy bay Mỹ bị tiêu diệt cùng bọn phi công và lính bảo vệ. Trận đánh ấy đã để lại một hình ảnh đẹp: một chiến sĩ của chúng ta là Nguyễn Văn Mao dựa vào chiếc máy bay đã bị tiêu diệt để đánh trả kẻ thù đang vây chặt. Anh hy sinh, nhưng không gục xuống mà vẫn dựa lưng vào chiếc máy bay, sừng sững trước mặt kẻ thù. Câu chuyện ấy đã đến với Lê Anh Xuân và trở thành bài thơ bất hủ “Dáng đứng Việt Nam”.

Từ đầu tháng 12-1972, quân và dân miền Nam rất nóng lòng trước những trận B52 đánh vào Hà Nội ngày càng ác liệt. Chúng tôi ở trong này đã chịu bao trận B52, hiểu rõ sự tàn bạo của những loạt bom Mỹ đối với rừng núi, xóm làng ở miền Nam. Song chúng tôi chưa thể hình dung được: phố phường chật hẹp, nhân dân đông đúc ở Hà Nội sẽ bị đau thương tang tóc to lớn đến mức nào, nếu những loạt B52 đổ xuống. Và rồi, từng ngày, từng ngày nỗi đau của chúng tôi càng lớn bởi giặc Mỹ càng leo thang. Quân và dân miền Nam ở bất cứ đâu đều tổ chức các trận đánh trả thù cho miền Bắc, cho Hà Nội.

*
* *

Từ cuối năm 1972, chúng tôi đã được thông báo nội dung cơ bản của Hiệp định Paris mà ta và Mỹ sắp ký kết. Cuộc chiến tranh chống Mỹ khá ác liệt nên ai cũng mong có đôi lúc “thư giãn” để chuẩn bị đi tiếp đến giai đoạn giành chiến thắng hoàn toàn. Chúng tôi nghiên cứu kỹ từng điều khoản của hiệp định dự thảo và rất vui về thắng lợi to lớn của ta trên bàn hội nghị. Chúng tôi thán phục các đồng chí ở bàn đàm phán Paris.

Thế rồi, được tin: phía Mỹ đã lật lọng, bày vẽ thêm nhiều điều khoản, kéo dài ngày ký Hiệp định Paris. Chúng tôi khá buồn, bởi một khi hiệp định chưa ký thì cuộc chiến tranh sẽ ngày càng ác liệt. Chúng ta phải giành thắng lợi to lớn hơn nữa trên chiến trường mới buộc kẻ thù ký hiệp định. Bom đạn ngày càng dữ dội, lại có thêm nhiều đồng bào, đồng chí thương vong. Chiến dịch Nguyễn Huệ đã mở ra một vùng giải phóng mới ở Lộc Ninh, Bù Đốp… song những trận đánh ác liệt ở Phước Long, An Lộc, Đường 14… vẫn kéo dài. Những đơn vị xe tăng của quân giải phóng đã xuất hiện trên miền Đông Nam bộ…

Miền Nam tiếp tục chiến đấu kiên cường và nóng lòng chờ đợi ngày ký kết hiệp định. Đồng bào miền Nam lại xót xa khi được tin: kẻ địch đánh phá rất ác liệt trên miền Bắc. B52 kéo cả đàn vào Hà Nội. Thế là giặc Mỹ không muốn ký kết hiệp định lập lại hòa bình. Chúng muốn buộc chúng ta trả giá cho tự do, yên bình. Hà Nội đánh mạnh lập nên “Điện Biên Phủ trên không”. Miền Nam đánh mạnh mở những vùng giải phóng rộng lớn. Chúng tôi biết có thể Hiệp định Paris sắp được ký và đồng nghĩa với sự đánh phá ác liệt của kẻ thù trước khi đặt bút ký hiệp định. Tin báo địch đánh phá dữ dội miền Bắc cùng với những trận B52 dội xuống căn cứ cách mạng miền Nam. Riêng tôi đã được nghe đài báo tin: máy bay Mỹ thả bom, bắn rốc két vào số 35 và 37 Lý Quốc Sư, Hà Nội. Gia đình tôi lại ở số 33A. Có ai hy sinh trong trận bom này không? Tôi ôm mặt bàng hoàng, ra bìa rừng ngồi lo lắng. Các anh trong ban biên tập gọi tôi đến phân công viết bài chia sẻ đau thương với Hà Nội và nêu quyết tâm của quân và dân miền Nam đánh mạnh để trả thù. Tôi ngồi vào chiếc bàn tre. Nhà bên cháu bé bập bẹ hát bài mà chúng tôi yêu thích:

…Ta muốn vươn lên bay về Hà Nội, dù có hy sinh tay súng không rời…

Tôi vừa khóc, vừa viết ngay trong đêm bài tùy bút “Hà Nội ơi, có chúng tôi đáp lời…”, bài được đăng ngay trên tuần báo Giải Phóng số đầu tháng 1-1973. Báo Giải Phóng được gửi đến các chiến trường, được các chiến sĩ và đồng bào hưởng ứng. Có một chuyện cảm động: một cán bộ tuyên truyền từ miền Tây Nam bộ lên R học (sau này anh là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh tận cùng Tổ quốc) đã khóc khi đọc bài báo đó. Anh lấy sổ tay chép toàn bài báo và giữ cho đến bây giờ…

Từ trước đến mãi sau này, đặc biệt từ năm 1972, quân và dân miền Nam với những trận đánh vào Biên Hòa, Tân Sơn Nhất, vào Sài Gòn… đã thực hiện lời thề: “Giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc”. Bây giờ và mãi sau này, chúng tôi chẳng bao giờ quên được hình ảnh những chiến sĩ, đồng bào quây quần bên chiếc radio, đã nhảy lên hoan hô quân và dân Hà Nội, hoan hô miền Bắc bắn hạ những chiếc B52. Thế rồi có tin từ khoảng cuối tháng 1-1973 sẽ ký kết Hiệp định Paris. Chúng tôi vui mừng chờ đợi – kể cả chờ đợi sự trả thù ác liệt của Mỹ. Ai cũng biết, trước khi Kít-sinh-giơ hạ bút ký Mỹ sẽ dội bom đánh phá ác liệt vào vùng giải phóng chúng ta để đỡ tức cho thất bại này. Các cơ quan đơn vị củng cố hầm hào, không cho anh em đi xa công sự. Các lớp học đêm, các bữa ăn cũng ở dưới hầm lớn có nắp. Tất cả chuẩn bị cho một thắng lợi to lớn nhưng sẽ phải trả thêm máu.

Đêm 26-1-1973, lệnh báo động sắp có máy bay B52 đánh vùng giải phóng. Chúng tôi cho tất cả anh em xuống hầm. Hàng đàn máy bay B52 liên tiếp đánh vào khu căn cứ trong đó có Ban tuyên huấn Trung ương Cục. Nhiều căn hầm của Đài phát thanh Giải Phóng, Thông tấn xã Giải Phóng… bị sập. Lại có thêm anh em hy sinh.

Chúng tôi biết: Hiệp định sắp được ký kết. Kẻ thù đang điên cuồng say máu cho đến phút cuối cùng. Và sáng 27-1-1973, Đài phát thanh Giải Phóng báo tin Hiệp định Paris được ký kết. Một “Điện Biên Phủ trên không” của Hà Nội chưa đủ làm cho chúng tỉnh ngộ. Phải có nhiều “Điện Biên Phủ trên không” và dưới đất ở miền Nam.

Cả cơ quan nhảy lên khỏi miệng hầm sung sướng reo hò. Lúc đó chúng tôi tin hòa bình sẽ được lập lại, sẽ không còn chiến tranh và ai cũng tin mình đã sống đến giờ phút hòa bình.

Chúng tôi được lệnh di chuyển cơ quan từ rừng núi biên giới về vùng giải phóng Tân Biên (Tây Ninh). Trên đường trong vùng giải phóng đã có xe hơi, xe gắn máy, xe bò kéo đi lũ lượt giữa ban ngày. Đồng bào từ các nơi tránh giặc cũng về vùng giải phóng cất nhà giữa đồng trống, ở các trảng tranh. Quân đội Sài Gòn rút chạy khỏi vùng giải phóng. Con đường vận chuyển súng đạn, lương thực đã có thể đi từ Hà Nội đến Lộc Ninh, Thiện Ngôn rồi theo đường sông đến tận đồng bằng sông Cửu Long.

Huyện Tân Biên – trong đó có sân bay Thiện Ngôn – được giải phóng. Theo quy định của Ủy ban Liên hiệp bốn bên, vùng giải phóng Xa-mát sẽ xây dựng một chốt của ủy ban quốc tế và sân bay Thiện Ngôn sẽ trở thành nơi trao trả tù binh của hai bên.

Hiệp định Paris mới được thi hành trên đất Việt Nam. Vùng giải phóng Campuchia vẫn còn bom đạn ác liệt. Các cơ quan đơn vị của ta đóng gần biên giới lại chịu mất mát, hy sinh. Chúng tôi vui vì đồng bào miền Bắc không còn bị máy bay Mỹ tàn phá. Vượt qua bom đạn Mỹ, miền Nam đã nhận thêm súng đạn, lương thực và cả trà, thuốc lá từ miền Bắc gửi vào.

Nhân dân miền Nam hiểu rất rõ ràng: sự phối hợp chặt chẽ giữa những trận “Điện Biên Phủ” ở miền Nam và “Điện Biên Phủ trên không” của Hà Nội đã buộc kẻ thù phải ký Hiệp định Paris. Quân và dân miền Nam đã tiếp tục giáng cho kẻ thù nhiều trận “Điện Biên Phủ” nữa để đi đến toàn thắng.

Theo ĐINH PHONG
(Công An TPHCM)

Đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại và trọn vẹn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Để chi viện cho miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, ngày 19/5/1959, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập “Đoàn quân sự đặc biệt” có nhiệm vụ mở đường, vận chuyển vũ khí, lương thực, tổ chức đưa đón bộ đội từ Nam ra Bắc và ngược lại. Hai con đường huyết mạch quan trọng được hình thành. Đó là con đường 559 theo dãy Trường Sơn và đường Hồ Chí Minh trên biển.

Ngày 23/10/1961, theo Chỉ thị của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã quyết định thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân ngày nay.

Với tên gọi “Đoàn tàu Không số”, con đường Hồ Chí Minh trên biển đãvận chuyển 150.000 tấn vũ khí, trang bị và 80.000 lượt cán bộ vượt biển vào Nam chiến đấu. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường của niềm tin tất thắng, con đường tự hào của bộ đội Hải quân Nhân dân Việt Nam.

Nhân kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, phóng viên VOV Online phỏng vấn Chuẩn Đô đốc Phạm Ngọc Chấn – Chủ nhiệm Chính trị Quân chủng Hải quân về những ý nghĩa to lớn và bài học kinh nghiệm của kỳ tích lịch sử này.

PV: Thưa Chuẩn Đô đốc Phạm Ngọc Chấn, nhân dịp Kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, xin ông cho biết về ý nghĩa to lớn của con đường vận tải chiến lược này?

Chuẩn Đô đốc Phạm Ngọc Chấn: Sự thành công của con đường đã để lại những ý nghĩa lịch sử to lớn, đó là:

1. Thắng lợi của Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại và trọn vẹn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, con đường còn là khát vọng độc lập dân tộc, ý chí nghị lực, sự mưu trí sáng tạo và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, là một trong những con đường huyền thoại, kỳ tích có một không hai trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc mà Quân chủng Hải quân, trực tiếp là Đoàn 125 Anh hùng, đã xây đắp nên.

2. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường nối liền giữa hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường miền Nam, những địa bàn mà tuyến đường Trường Sơn trên bộ lúc đó chưa vươn tới được để kịp thời vận chuyển chi viện vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang, góp phần nâng cao khả năng chiến đấu, phát triển lực lượng, đặc biệt đã làm thay đổi tương quan về lực lượng giữa ta và địch, cổ vũ phong trào đấu tranh vũ trang ngay trong lòng địch, tạo ra bước phát triển mới cho Cách mạng miền Nam, làm nên những chiến thắng Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Trà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài…

3. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường vận chuyển chiến lược, độc đáo, đạt hiệu quả cao, rút ngắn được thời gian vận chuyển và thương vong ít.

Tham gia lực lượng làm nhiệm vụ bảo đảm và vận chuyển trên tuyến đường có 1.375 cán bộ, chiến sĩ thuộc Quân chủng Hải quân, trong đó có 104 đồng chí đã anh dũng hy sinh, 46 đồng chí bị thương. Tổng số đã có 168 chuyến đi, trong đó có 30 lần chạm trán, chiến đấu với lực lượng của địch; không một tàu nào của ta đầu hàng địch; 11 lần chúng ta phải phá hủy tàu, tổn thất về hàng khoảng 7%, có nghĩa là 93% tới đích.

So với vận chuyển bằng đường bộ thì vận chuyển bằng đường biển chi phí rẻ hơn, thời gian cũng được rút ngắn hơn nhiều. Nếu vận chuyển 100 tấn vũ khí bằng đường biển, trên một con tàu, chỉ cần 10-15 hay tối đa 20 cán bộ, chiến sỹ; nhưng nếu vận chuyển bằng đường bộ thì phải cần đến 1 Tiểu đoàn vận tải cơ giới và 1 Sư đoàn nếu là khuân vác.

Về thời gian, nếu vận chuyển bằng đường bộ phải mất mấy tháng trời mới tới nơi, nhưng vận chuyển bằng đường biển, tuy gian nan, nguy hiểm hơn nhưng nếu thuận lợi thì chỉ một tuần là hàng đã tới các bến. Chính vì vậy mà đã đáp ứng được Chỉ thị “Thần tốc”, “Đại thần tốc” của Bộ Tư lệnh Chiến dịch lúc bấy giờ.
Ngoài những ý nghĩa vừa kể trên, Đường Hồ Chí Minh trên biển còn đảm đương sứ mệnh quan trọng, đó là vận chuyển những món hàng “đặc biệt” mà không thể vận chuyển bằng đường bộ như: Dụng cụ đặc biệt về y tế; máy chế tạo giấy tờ cho cán bộ ta đi lại công khai trên toàn miền Nam; hóa chất đặc biệt để chế tạo vũ khí…

PV: Đường Hồ Chí Minh trên biển không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc. Những bài học kinh nghiệm đó là gì, thưa ông?

Chuẩn Đô đốc Phạm Ngọc Chấn: Những bài học kinh nghiệm của Đường Hồ Chí Minh trên biển đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Quân chủng Hải quân đảm đương sứ mệnh là lực lượng nòng cốt và trực tiếp trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.Theo tôi, có 4 bài học kinh nghiệm là:

Thứ nhất, phải phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân; sự giúp đỡ, ủng hộ quý báu lúc bấy giờ của các nước XHCN anh em, trong đó đặc biệt là sự giúp đỡ, ủng hộ của nước bạn Trung Quốc về tàu, bến bãi, vũ khí, trang thiết bị… Phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, nhất là nhân dân địa phương từ bến xuất phát đến các bến bãi nơi tiếp nhận vũ khí, đạn dược từ con đường này.

Tôi cho rằng, đây là bài học quan trọng xuyên suốt tạo nên thành công của con đường. Bởi sự hiệp đồng chặt chẽ của các lực lượng từ bốc xếp hàng xuống tàu ở điểm xuất phát đến hiệp đồng trong toàn tàu và các lực lượng bến bãi nơi tiếp nhận hàng trong điều kiện hạn chế về thông tin liên lạc nhưng rất thống nhất và bảo đảm về thời gian, khi tàu cập bến là nhanh chóng giải phóng hàng được ngay, rồi vận chuyển phân chia vũ khí đạn dược đến các khu vực khác của chiến trường.

Bên cạnh đó, phải xây dựng đơn vị, các tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức gắn với nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn cho từng cán bộ, chiến sĩ để mỗi con tàu ra đi làm nhiệm vụ có thể độc lập tác chiến, xử lý được các tình huống phát sinh trên biển.

Thứ hai, tư tưởng tiến công, mưu trí, dũng cảm và có ý chí, niềm tin sắt đá vào Đảng, vào thắng lợi của cuộc cách mạng. Mặc dù trong điều kiện khó khăn gian khổ và nguy hiểm luôn đe dọa đến tính mạng, như: Thời tiết luôn diễn biến bất thường; sóng to, bão tố; kẻ thù phong tỏa bao vây dày đặc cả ven bờ và ngoài khơi, có những lúc ranh giới giữa sự sống với cái chết chỉ trong gang tấc, song với tư tưởng tiến công, sự mưu trí sáng tạo, niềm tin vào thắng lợi nên các cán bộ, chiến sĩ hải quân đã tìm ra những phương thức vận chuyển độc đáo, chi viện vũ khí trang bị cho chiến trường miền Nam đánh Mỹ.

Thứ ba, đó là bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chấp nhận hy sinh vì nhiệm vụ.
Thứ tư, tuyệt đối giữ bí mật về các hoạt động và sự tồn tại của con đường. Để duy trì con đường hoạt động lâu dài, hiệu quả, vấn đề bảo đảm bí mật là cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy mà nhiều đồng chí, nhiều con tàu đã phải chấp nhận hy sinh, hủy tàu để giữ bí mật cho phương thức vận chuyển và bí mật cho con đường.

PV: Với những bài học kinh nghiệm rút ra từ con đường vận tải huyền thoại trên biển, xin ông cho biết việc vận dụng những bài học kinh nghiệm trên để xây dựng Quân chủng Hải quân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới?

Chuẩn Đô đốc Phạm Ngọc Chấn: Rõ ràng, những bài học kinh nghiệm trên vẫn còn nguyên giá trị và thời gian tới, chúng tôi cũng sẽ tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo để làm rõ thêm những bài học kinh nghiệm này. Những bài học kinh nghiệm của con đường Hồ Chí Minh trên biển sẽ được tiếp tục trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm, lục địa của Tổ quốc ngày nay.

Mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm, lục địa của Tổ quốc là phải bảo vệ trọn vẹn chủ quyền biển, đảo trong mọi tình huống, nhưng phải giữ vững được môi trường hòa bình, ổn định trên các vùng biển, không để xảy ra xung đột, đụng độ làm ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác với các nước láng giềng. Rõ ràng đây là nhiệm vụ cần được vận dụng mọi sức mạnh tổng hợp và bài học kinh nghiệm, sự sáng tạo, mưu trí từ con đường Hồ Chí Minh trên biển càng có thêm ý nghĩa.

Để đáp ứng được điều này, chúng tôi xác định cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp, nhất là xây dựng ý chí quyết tâm, tinh thần độc lập tác chiến; tập trung xây dựng con người và tổ chức thực sự vững mạnh, làm cơ sở nền tảng để phát huy sức mạnh tổng hợp; trong đó coi trọng xây dựng các chi bộ tàu, đảo, đài trạm, nhà giàn bảo đảm năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, sẵn sàng xử lý tốt các tình huống theo đúng đối sách trên biển.

Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân trên biển; nhất là nâng cao nhận thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của biển, đảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như vai trò làm nòng cốt của Hải quân Nhân dân Việt Nam trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo; tạo sự đồng thuận trong hành trình tiến ra biển, làm chủ biển, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4, Khóa X của Đảng về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”.

PV: Xin cảm ơn ông!./.

Theo Đài Tiếng nói Việt Nam

Babylift, chiến dịch bắt cóc trẻ em Việt Nam của người Mỹ

Từ ngày 4/4 đến 26/4/1975, trên các mặt trận, quân đội Sài Gòn bị quân Giải phóng đánh tơi tả, phải lùi dần. Vòng vây quanh Sài Gòn dần khép lại như chiếc thòng lọng.

Trong khi bước chân quân Giải phóng đang dồn dập tiến về thì trong nội thành Sài Gòn, quan chức Sài Gòn và cố vấn Mỹ cũng đang chen lấn trong một cuộc di tản hỗn loạn mà nhiều sử gia sau này gọi là cuộc tháo chạy.

Những thành phần tháo chạy là những nhân vật trong chính quyền Sài Gòn và các nhân viên người Mỹ. Họ tháo chạy vì lo sợ một cuộc “tắm máu” khi quân Giải phóng vào Sài Gòn. Điều bất thường là trong hàng nghìn người di tản đó, có những chuyến bay riêng, chở các trẻ mồ côi từ Sài Gòn ra nước ngoài.

Chiến dịch Babylift

Từ ngày 4/4 đến 26/4/1975, trên các mặt trận, quân đội Sài Gòn bị quân Giải phóng đánh tơi tả, phải lùi dần. Vòng vây quanh Sài Gòn dần khép lại như chiếc thòng lọng. Trong khi các bước chân quân Giải phóng đang dồn dập tiến về thì trong nội thành Sài Gòn, quan chức Sài Gòn và cố vấn Mỹ cũng đang chen lấn trong một cuộc di tản hỗn loạn mà nhiều sử gia sau này gọi là cuộc tháo chạy.

Những thành phần tháo chạy là những nhân vật trong chính quyền Sài Gòn và các nhân viên người Mỹ. Họ tháo chạy vì lo sợ một cuộc tắm máu khi quân Giải phóng vào Sài Gòn. Điều bất thường là trong hàng nghìn người di tản đó, có những chuyến bay riêng, chở các trẻ mồ côi từ Sài Gòn ra nước ngoài.

Chiến tranh tuy tàn khốc song bản chất người Việt Nam nhân đạo, đối với kẻ thù mà ông cha ta thời Lê, khi đã thắng cũng không giết hại, còn cấp lương cấp ngựa cho về. Đến thời đại Hồ Chí Minh, các binh sĩ Pháp bị bắt ở Điện Biên rồi các phi công Mỹ bị bắn rơi được đối xử nhân đạo như thế nào, cả cộng đồng quốc tế đều biết. Vậy mà cơ quan phụ trách vấn đề xã hội của chính quyền Sài Gòn tuyên truyền rằng, Cộng sản sẽ trả thù, mổ bụng các trẻ em mồ côi, nhất là con lai của Mỹ để có cớ đưa trẻ em ra nước ngoài.

Người Mỹ thì rêu rao rằng những đứa trẻ được đưa đi phần lớn là con lai của lính Mỹ và họ làm như vậy là biểu hiện một chút trách nhiệm cuối cùng. Người ta đã đặt tham vọng đưa 70.000 trẻ em Việt Nam ra nước ngoài trong chiến dịch này.

Ngày 4/4/1975, một chiếc máy bay vận tải C-5A bay đến Tân Sơn Nhất để chuyển cho quân đội Sài Gòn vũ khí. Theo kế hoạch đã định, ở chiều bay về, máy bay này mang theo 300 người trong đó có nhân viên sứ quán Mỹ và nhiều trẻ nhỏ Việt Nam để mở đầu cho một chiến dịch Babylift.

Chiếc máy bay cất cánh được hơn 1 giờ thì bắt đầu bốc cháy sau tiếng nổ to ở phía sau. Đúng theo thiết kế, chiếc máy bay này chỉ có thể chở hơn 100 người nhưng nó đã chở tới 300 người. Do đó, mặt nạ ô xy thiếu trầm trọng. Phi hành đoàn phải quay đầu lại sân bay Tân Sơn Nhất nhưng không kịp. Khi còn cách Sài Gòn khoảng trên 10 km, chiếc máy bay bắt đầu rơi và vỡ tan tành. Sau vụ nổ, chỉ còn 170 người lớn và trẻ em sống sót với nhiều thương tích.

Tuy nhiên, bi kịch C-5A không làm hoãn chiến dịch Babylift. Các tài liệu phương Tây như Operation babylift, The Legacy of Operation Babylift cho biết: Từ ngày 4/4 đến 26/4/1975, chiến dịch Babylift đã mang 3.300 trẻ em Việt Nam đến Mỹ, Canada, châu Âu và Úc…

Lật tẩy những âm mưu

Bọc ngoài bằng những danh nghĩa nhân đạo nhưng thực tế, chiến dịch Babylift là một âm mưu chính trị đê hèn của các quan chức chính quyền Sài Gòn khi chế độ của họ đã đến cơn hấp hối. Theo hồi ký của ông Nguyễn Văn Hàm, nguyên là giáo sư, nghị sỹ của Hạ viện Sài Gòn trước năm 1975 (được đăng trên website Haylentieng.vn) thì cuộc di tản trẻ em này hoàn toàn mang động cơ tuyên truyền chính trị.

Trong thời điểm những ngày đầu tháng 4/1975, khi Đà Nẵng thất thủ, ông Hàm gặp Albert Francis là nhân vật quan trọng của CIA kiêm Tổng lãnh sự Đà Nẵng và được Francis cho một tài liệu có liên quan đến chiến dịch Babylift. Hồi ký viết: “Đây là bức thư của Phó thủ tướng, bác sĩ Phan Quang Đán, Quốc vụ khanh đặc trách Xã hội, gởi Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa, để xin đưa bốn ngàn trẻ em Việt mồ côi sang Mỹ với mục đích: “… sẽ gây thêm xúc động trên khắp thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, rất có lợi cho Việt Nam Cộng Hòa … Đại sứ Hoa Kỳ cũng can thiệp trực tiếp với tôi để số cô nhi trên được xuất ngoại tập thể… Việc xuất ngoại tập thể này, thêm vào việc hàng triệu đồng bào nạn nhân chiến cuộc lìa bỏ những vùng Cộng sản chiếm đóng, sẽ giúp xoay chuyển dư luận dân chúng Hoa Kỳ, sẽ được các hãng Truyền thanh và Truyền hình cùng báo chí Hoa Kỳ mục kích, tường thuật, do đó có ảnh hưởng rất lớn lao…”. Bức thư ký tên và đóng dấu của bác sĩ Đán, đề ngày 2/4/1975.

Cuốn hồi ký này cũng cho biết thêm: “Để đủ túc số mà tuyên truyền, chẳng gì đáng ngạc nhiên khi, trong chuyến đầu tiên, người ta bốc cả những trẻ con ở ngoài các trại cô nhi. Một người bạn cùng quê, cùng tuổi với tôi, bấy giờ gia đình đang ở Quy Nhơn, có đứa con gái mười tuổi, đi học bán trú một trường Đạo, một hôm không thấy về nhà. Đăng báo, nhờ đài tìm trẻ thất lạc vô hiệu, coi như mất tích luôn”.

Ngay lúc khởi đầu chiến dịch này, mục đích chính trị khuất tất của nó đã bị các cô nhi viện phát giác và tố cáo đồng thời họ nêu quyết tâm sẽ giữ các trẻ em, không để người ta mang ra nước ngoài. Vẫn theo tài liệu của ông Hàm, vào ngày 6/4/1975, một bức thư có con dấu của cô nhi viện Ngọc Ninh (Phan Rang), Nhất Chi Mai (Lâm Đồng) và Biên Hòa gửi Quốc hội, nhân dân Hoa Kỳ, Hội đồng Thập tự Quốc tế, Cơ quan bảo trợ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc… tố giác: “ Chúng tôi đau đớn mà tố giác rằng trong khi đời sống của bốn ngàn cô nhi đang bình lặng tại các cơ sở nghĩa dưỡng toàn quốc, thì Chính phủ Sài Gòn do sự khuyến khích của Tòa Đại sứ Mỹ đã bất ngờ đưa hết số cô nhi trên về Sài Gòn để chờ lên máy bay rởi bỏ quê hương. Chúng tôi cũng gay gắt lên án các Hội Nghĩa Dưỡng quốc tế tại Việt Nam đã cấu kết chặt chẽ với âm mưu trên nhằm ý đồ chính trị, bội phản lại chủ trương nhân đạo nhân chánh một cách bỉ ổi… Chúng tôi long trọng xác nhận: Quyết tâm bảo vệ cô nhi Việt Nam đến cùng. Không bao giờ chấp nhận xuất cảng cô nhi cho mưu đồ chính trị tàn nhẫn. Số cô nhi còn lại tại các cô nhi viện, chúng tôi thà chết chứ không để chính quyền bắt mang đi”.

Có lẽ nhờ đó mà ý định “xuất cảng” 70.000 cô nhi Việt Nam ra nước ngoài của đã không thực hiện được. Dù thế, với 3.300 trẻ em đã bị mang đi, trong đó có nhiều trẻ em vốn vẫn có cha mẹ, đã gây ra nhiều cảnh biệt ly cho các gia đình, để lại hệ lụy xã hội mãi về sau.

Theo KIẾN THỨC

Chung sức, đồng lòng cho trận đánh cuối cùng

Việc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước có lẽ đã không diễn ra vào mùa xuân năm 1975 nếu trước đó, không có sự chung sức, đồng lòng chuẩn bị của cả nước dưới ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc.

 

Chiến dịch Hồ Chí Minh được hình thành ngay sau thắng lợi vang dội từ các chiến dịch Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng (tháng 3/1975) và được xác định sẽ diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn (kết thúc trước mùa mưa – tháng 5/1975).

Để chuẩn bị cho trận quyết chiến cuối cùng này, một lần nữa ngọn cờ “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” của Bác Hồ lại được Đảng phất cao.

Triệu người cho trận đánh cuối cùng

Tháng 3/1975, khi thời cơ “ngàn năm có một” để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước xuất hiện, Bộ Chính trị đã lập Hội đồng chi viện chiến trường do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch.

Ngay lập tức, đã có 238.646 cán bộ, chiến sỹ thần tốc hành quân vào chiến trường. Khi đó, hầu hết thanh niên miền Bắc dù là học sinh, sinh viên, thầy giáo, kỹ sư, công nhân hay cán bộ, công chức, thanh niên các dân tộc thiểu số, tín đồ phật giáo, công giáo… đều tình nguyện nhập ngũ.Đó là chưa kể hàng chục vạn thanh niên khác tham gia thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp phục vụ chiến đấu và chiến đấu.

Trên chiến trường miền Nam, hình ảnh thân thương của anh bộ đội Cụ Hồ đã nhanh chóng cảm hóa được tầng lớp thanh niên – nguồn lực tại chỗ rất quan trọng bổ sung cho quân giải phóng miền Nam.

Nhờ vậy, lực lượng của ta đã không ngừng tăng lên và đến trước ngày Tổng tiến công, nổi dậy mùa xuân 1975, quân giải phóng miền Nam đã lên tới 1.080.000 người; nâng so sánh tỷ lệ quân chủ lực ta và địch lên 1,03/1.

Trên cơ sở này, Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư, Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập các các quân đoàn binh chủng hợp thành để đáp ứng nhu cầu tác chiến lớn. Đây cũng chính là 5 cánh quân đã tiến vào giải phóng Sài Gòn trong chiến dịch Hồ Chí Minh.

“Ăn dè” làm nên đại thắng

Bên cạnh việc chuẩn bị lực lượng, một khối lượng vật chất kỹ thuật, vũ khí lớn cũng đã được huy động trong tình hình quốc tế không thuận lợi.

Đến năm 1975, tuy viện trợ từ nước ngoài đã bị cắt nhưng nhờ có dự trữ từ trước kết hợp với sản xuất bổ sung kịp thời, khối lượng vật chất chiến tranh đưa vào chiến trường vẫn bảo đảm theo yêu cầu tác chiến.

Đặc biệt, những vũ khí, phương tiện quân sự có uy lực mạnh (pháo, đạn pháo cỡ lớn, xe thiết giáp…) vẫn đáp ứng đủ cơ số. Cũng nhờ nỗ lực cao của toàn dân, một khối lượng lương thực, thực phẩm khổng lồ đã được huy động (đến năm 1975 con số này là trên 265.000 tấn).

Để vận chuyển nhân lực, vật lực, ngoài 6.700 ô-tô vận tải chuyên trách của quân đội, Nhà nước còn điều động tới 60% tổng số phương tiện chuyên trở của các bộ, ngành phục vụ tiền tuyến. Tuyến đường ống dẫn nhiên liệu từ Bắc vào Nam được kéo dài tới 5.000 km, đưa khối lượng vận chuyển từ 1973 – 1975 lên 303.000 tấn.

Đầu năm 1975, tổng chiều dài mạng đường chiến lược cũng được nâng lên 16.790 km, vận chuyển vào Nam khoảng 36 vạn tấn vật chất các loại phục vụ đánh lớn…

Nếu chưa có sự chuẩn bị đầy đủ sức mạnh thực lực rất ưu thế nêu trên, chưa hẳn chúng ta đã có đại thắng mùa xuân 1975 mà có thể sẽ là muộn hơn nữa.

Việc động viên được toàn dân dốc mọi nguồn lực cho chiến tranh, nhất là ở thời điểm bước ngoặt, chính là thành quả vĩ đại của việc thấu triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” mà trực tiếp nhất là việc giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc.

‘Chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta thắng’

 

Trưa 2/5/1975, tại Dinh Độc Lập (nay là Dinh Thống nhât), sau Lễ ra mắt Ủy ban quân quản Sài Gòn, Thượng tướng Trần Văn Trà Chủ tịch ủy ban quân quản (người ngồi bên trái) đã có buổi gặp riêng Dương Văn Minh, (người ngồi thứ 2 trái sang), Nguyễn Văn Huyền (người ngồi thứ 3 trái sang) nguyên là tổng thống Chính quyền Sài Gòn đầu hàng, sụp đổ.

 

Tại đây, Thượng tướng Trần Văn Trà, nói: “Giữa chúng ta không có kẻ thua người thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta thắng đế quốc Mỹ”.

 

Bài học của 35 năm trước vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Việc thực hiện có hiệu quả chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, thu phục nhân tâm, cố kết lòng dân không chỉ giúp làm thất bại mọi âm mưu phá hoại đất nước của các thế lực phản động mà còn tạo nên được sức mạnh tổng hợp to lớn để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

 

 

Đại tá, TS NGUYỄN HUY THỤC (ĐẤT VIỆT ONLINE)

Ký ức về trận Núi Thành – Cuộc đọ sức đầu tiên với quân đội Mỹ

Từ ngàn đời nay, trong lịch sử quân sự, đánh thắng đòn phủ đầu luôn luôn là yếu tố quan trọng cho việc thắng bại của cuộc chiến. Trận Núi Thành năm 1965 đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý báu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Những sự kiện nền tảng

Vào năm 1964, Tỉnh ủy Quảng Nam mở hội nghị kiểm điểm tình hình và đề ra nhiệm vụ mà trọng tâm có ba mục tiêu phải thực hiện bằng được: – Một là, phá ấp chiến lược, phá thế kìm kẹp của địch, giành lại và làm chủ nông thôn đồng bằng, chống càn quét, đánh bại âm mưu bình định trọng điểm của địch, xây dựng vùng giải phóng vững mạnh. – Hai là, tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, làm tan rã từng bộ phận quân địch, nhất là quân địa phương. – Ba là, củng cố, xây dựng phát triển mạnh mẽ lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, tăng cường thực lực kinh tế.

Sau một thời gian thực hiện ba nhiệm vụ này, chính quyền Cách mạng được thành lập ở 115 xã trên tổng số 138 xã trong tỉnh. 380.000 dân vùng giải phóng và vùng tranh chấp thuộc về Cách mạng. Từng đoạn giao thông trên đường số 1, đường 105, đường 16, đường Tam Kỳ – Tiên Phước đều bị ta cắt đứt. Các quận lỵ bị cô lập. Quận lỵ Thăng Bình chỉ còn thôn Hà Lam và một phần thôn Thanh Ly.

Lúc này, việc giải phóng những xã ngay sát đường số 1, từ cầu Ông Bộ trở vào An Tân, là nhiệm vụ trước mắt của Tỉnh ủy và Ban cán sự tỉnh đội. Trong tình thế lúc đó, với lực lượng quần chúng và vũ trang hiện có, chúng ta hoàn toàn có thể giải phóng từng vùng rộng lớn nông thôn ngay sát các thành phố, thị xã, quận lỵ, kể cả vùng nông thôn sát ngay hai bên đường số 1, làm chủ ban ngày từng đoạn quốc lộ.

Mỹ đổ bộ

Ðầu năm 1965, chiến lược Chiến tranh đặc biệt bị phá sản không gì cứu vãn nổi. Trước nguy cơ đó, Mỹ bắt buộc phải tính đến nước cờ liều lĩnh, đẩy cuộc Chiến tranh đặc biệt sang cuộc Chiến tranh cục bộ trên toàn miền nam. Sĩ quan, binh lính Mỹ trực tiếp tham chiến cùng với những phương tiện chiến tranh hiện đại.

Ngày 8-3-1965, Ðại đội đầu tiên của tiểu đoàn 3 thuộc lữ đoàn thủy quân lục chiến, sư đoàn 1 lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ lên Ðà Nẵng. Tiếp đó, ngày 7-5-1965, sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 của Mỹ đổ bộ lên địa phận xã Kỳ Liên nằm sát cảng Kỳ Hà.

Chỉ trong một thời gian ngắn, chúng đã đưa vào đây năm tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo 105 ly, một đại đội pháo 155 ly, hai đại đội xe bọc thép M113 và M118, một đại đội pháo tự hành, năm phi đoàn máy bay lên thẳng, một phi đoàn máy bay phản lực tiêm kích.

Chúng tiến hành khủng bố đuổi dân hai xã Kỳ Liên, Kỳ Hà (nay là hai xã Tam Quang và Tam Nghĩa – Núi Thành) đi nơi khác, lấy đất xây dựng căn cứ Chu Lai, đồng thời triển khai lực lượng chiến đấu, mở nhiều cuộc càn quét nhằm tạo vành đai bảo vệ căn cứ này.

Một tình thế mới của cuộc chiến đấu đã đến. Tỉnh ủy và Ban cán sự tỉnh đội đặt ra câu hỏi: Sẽ hành động sao đây? Giữa lúc đó, chúng tôi nhận được chỉ thị của Khu ủy và Quân khu là chuyển hướng từ đánh ngụy sang đối tượng mới là đánh Mỹ. Lúc này, chung quanh các căn cứ của Mỹ ở Ðà Nẵng và Chu Lai đang dần dần hình thành các vành đai diệt Mỹ. Các lực lượng du kích của ta, trong quá trình đụng độ với quân Mỹ, đã đánh những trận nhỏ, tiêu diệt quân Mỹ nống ra khỏi căn cứ.

Khi nhận được chỉ thị của Khu ủy và Quân khu, Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ðà và Quảng Nam đưa ra quyết tâm: Chưa giải phóng miền nam ta còn phải chiến đấu, chiến tranh kiểu gì cũng đánh, đối tượng nào cũng đánh, đông bao nhiêu, lâu dài bao nhiêu cũng đánh… Chúng ta có nhiệm vụ đánh Mỹ xâm lược đến cùng, bằng hai chân ba mũi giáp công, để đóng góp kinh nghiệm cho toàn miền đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

Ðánh Mỹ

Bắt đầu từ đó, các lực lượng du kích tại chỗ của ta đánh thắng nhiều trận nhỏ, tiêu diệt một số lính Mỹ nống ra khỏi căn cứ. Riêng ở vành đai Chu Lai, ngay trong trận đầu, anh em đã loại khỏi vòng chiến một tiểu đội Mỹ, thu được hai khẩu AR 15 và một số quân trang quân dụng. Trận đánh này có ý nghĩa lớn đối với chúng tôi hồi đó.

Trong lúc bọn xâm lược trang bị tận răng những súng đạn, xe tăng, máy bay hiện đại thì những chiến sĩ du kích nhỏ bé của ta, với súng trường và lựu đạn, đã hạ được những tên Mỹ to lớn. Nhiều dũng sĩ diệt Mỹ đã xuất hiện. Ngoài huyện  nam Tam Kỳ, du kích các huyện bắc Tam Kỳ, Thăng Bình, Quế Sơn, Tiên Phước đều cử đội du kích của mình đến Chu Lai, đưa lực lượng ở vành đai diệt Mỹ này lên đến 400 tay súng.

Hồi đó, từ hậu phương miền bắc đã chi viện kịp thời loại súng trường nòng dài, có kính ngắm của nước bạn Hung-ga-ri. Từ công sự ngoài hàng rào, các tay súng thiện xạ của ta bắn tỉa bất cứ tên lính Mỹ nào di động trong căn cứ của chúng, bảo đảm độ chính xác rất cao. Sự hoảng loạn tinh thần trong lính Mỹ đã bắt đầu xuất hiện.

Ngày 11-4-1965, du kích Hòa Phát đã làm nổ tung kho đạn của Mỹ ở sân bay Ðà Nẵng, làm cho bọn lính thủy đánh bộ thất điên bát đảo, xe cộ của chúng chạy tán loạn. Ngày 14-4, du kích Hòa Quý (Hòa Vang) loại khỏi vòng chiến mười tên Mỹ. Ngày 18-4, du kích xã Hòa Minh loại thêm 12 tên, du kích Ðiện Hòa đánh Mỹ tại Hòa Châu, lấy được súng Mỹ.

Ngày 17-5, bọn Mỹ ở Chu Lai nống ra phía tây, dùng lực lượng pháo binh cơ giới để yểm trợ cho một đại đội Mỹ lên chốt Núi Thành, du kích xã Kỳ Sanh đã kịp thời nổ súng diệt bốn tên. Những thắng lợi đầu tiên đó tuy còn rất khiêm tốn, nhưng đã góp phần rất lớn vào việc động viên khí thế của bộ đội và nhân dân ta dám đánh Mỹ và quyết tâm thắng Mỹ.

Sau khi đổ bộ vào Chu Lai, bọn Mỹ cho một đại đội Mỹ lên chốt ở Núi Thành, một ngọn đồi cách đường quốc lộ số 1 và đường sắt bắc nam hơn một km về phía tây. Mục đích của bọn Mỹ khi lập cứ điểm này là để bảo vệ vòng ngoài cho căn cứ Chu Lai, từ đó khống chế sâu vào vùng giải phóng của ta.

Tỉnh ủy và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đặt ra nhiệm vụ phải diệt cái chốt này, nhưng vấn đề quan trọng đặt ra là diệt chúng bằng cách nào và vào thời điểm nào thì thuận lợi nhất? Khi đó, với cương vị là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Chính trị viên tỉnh đội, tôi xuống đại đội 2, tiểu đoàn 70, đơn vị dự kiến sẽ được giao nhiệm vụ đánh Núi Thành tăng cường cho Ðại đội 2 đội đặc công. Anh em đang khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh.

Trong vài lần trò chuyện với anh em, chúng tôi phát hiện ra những băn khoăn suy nghĩ của một số người vẫn chưa tự tin là có đánh thắng được Mỹ không. Trong khi trò chuyện, một tiểu đội trưởng buột miệng  nói với tôi: “Thằng Mỹ nó to xác vậy, không biết đánh giáp lá cà, mình có vật nổi nó không?”, “Hỏa lực nó mạnh như vậy, nếu tiếp cận mà bị lộ, sẽ xử lý tình huống như thế nào để tránh thương vong vì pháo của nó?”… Tất cả những băn khoăn đó đều được chúng tôi cùng ngồi họp bàn và thông suốt cách đánh với anh em.

Núi Thành là một ngọn đồi dài 1.450 m, rộng 900 m, độ cao ở mỏm cao nhất là 50 m. Vì nằm ngay cạnh đường số 1 và đường sắt bắc – nam cho nên việc đi đến Núi Thành đều thuận lợi. Chỉ có hướng tây, vì tiếp giáp với dải đồi thấp của Trường Sơn cho nên việc đi lại có phức tạp hiểm trở hơn. Nếu ta chiếm được Núi Thành sẽ khống chế được cả một vùng rộng lớn từ Dốc Sỏi (ranh giới tiếp giáp tỉnh Quảng Ngãi) đến ga An Tân, uy hiếp trực tiếp căn cứ Chu Lai.

Suốt đêm 25-5, chúng tôi vây quanh tấm bản đồ chiến sự hồi hộp theo dõi các cánh quân tiếp cận các mục tiêu. Ðến 20 giờ, đại đội 2 báo cáo về các mũi đã đưa lực lượng áp sát vào trong hàng rào địch. Mũi xa nhất cách hầm cố thủ của Mỹ ba mét, còn mũi gần nhất chỉ cách một mét.

Nhưng đến 0 giờ ngày 26-5, không nghe tiếng súng nổ, tất cả chúng tôi như ngồi trên đống lửa. Từng giây một trôi qua một cách nặng nề. Các sĩ quan, chiến sĩ thông tin được lệnh bằng mọi cách phải liên lạc cho được các đơn vị, nhất là đơn vị đánh cầu An Tân, hỏi cho ra lý do vì sao không nổ súng đúng giờ G. Rồi chỉ nửa giờ sau đó, tiếng súng nhỏ và tiếng thủ pháo nổ ran trên đỉnh Núi Thành.

Không ai bảo ai, chúng tôi đều đứng dậy hướng về phía  những chớp lửa xé đêm tối vụt lên cùng với những chớp giật liên hồi, không phân biệt được tiếng súng nổ là của ta hay của bọn Mỹ. Sau này, khi nhận được báo cáo đầy đủ, trận đánh diễn ra như sau:

Ðúng 0 giờ ngày 26-5, sau khi chờ 30 phút không nghe tiếng súng phát lệnh ở cầu An Tân – bởi lúc đó địch đã đánh hơi – ở khu vực cầu An Tân, sợ ta có chủ trương đánh cầu cho nên bọn chúng tập trung canh phòng cao độ. Chúng liên tục bắn pháo sáng và dùng nhiều lựu đạn thả xuống chân cầu cho nên lực lượng công binh chưa có cách gì tiếp cận được.

Không thể kiên trì thêm được, một quyết đoán khá thông minh và táo bạo: Ðại đội trưởng Võ Thành Năm lệnh cho Trần Ngọc Ảnh, mũi trưởng ở hướng chủ yếu đánh quả thủ pháo đầu tiên vào công sự Mỹ. Ngay sau đó, tất cả các mũi nổ súng đánh phủ đầu quân Mỹ. Tiếng súng trên Núi Thành đã thành tiếng súng phát lệnh chung cho các mục tiêu khác như cầu Ông Bộ, cầu An Tân, thị xã Tam Kỳ cùng đồng loạt nổ súng.

Từng tổ ba người phát triển theo hình chữ A dùng tiểu liên, thủ pháo lựu đạn lần lượt đánh chiếm từng hầm một từ ngoài vào trong. Sau tám phút, bộ đội ta đã tiêu diệt và chiếm tuyến công sự vòng ngoài. Ðại đội trưởng Năm nhanh chóng bám sát đơn vị. Vận động lên được nửa đường, Năm gặp một tên Mỹ tay không súng, đầu không mũ từ trên cao lao xuống tháo chạy. Anh vừa đưa khẩu súng ngắn lên thì tên Mỹ vồ ngay lấy anh.

Phát đạn nổ vụt lên trời. Năm ôm lấy tên Mỹ quật lộn về phía sau. Lúc đó, mũi trưởng Ảnh vừa lao tới sẵn quả lựu đạn chày trong tay, quật thẳng vào mặt tên Mỹ, Năm bắn bồi thêm một phát đạn kết liễu tên Mỹ, rồi anh cùng anh em tiếp tục xông lên.

Ở mũi thứ yếu hướng tây đồi 50 có độ dốc cao hơn cho nên bị địch dùng hỏa lực để ngăn chặn. Anh em vẫn kiên quyết dùng lựu đạn, thủ pháo, lưỡi lê đánh giáp lá cà. Nhưng hỏa lực địch vẫn bắn mạnh, làm mũi này chưa phát triển được.

Ðại đội trưởng Năm, mũi trưởng Ảnh chỉ huy mũi chủ yếu phát triển nhanh sang chi viện cho mũi thứ yếu. Sau hai mươi phút chiến đấu, quân ta ở hai mũi đã gặp nhau. Bộ đội lần lượt đánh chiếm các hầm và hoàn toàn làm chủ đồi 50.

Lúc đó ở mỏm đồi 49, anh em đã đánh chiếm được tầng công sự thứ hai ở vòng ngoài thì gặp một khẩu đại liên địch bắn tạt ngang đội hình. Ba đồng chí làm nhiệm vụ đột kích bị thương. Ðồng chí mũi trưởng đã kịp thời điều tổ dự bị lên cùng anh em còn lại, mở thêm một hướng đột kích khác từ đông bắc đánh thọc thẳng vào trong, cắt đội hình địch, diệt khẩu đại liên, rồi nhân điều kiện thuận lợi được tạo ra, anh em phát triển đánh chiếm tiêu diệt toàn bộ quân địch, làm chủ trận địa. Trong lúc đó, trận địa hỏa lực của Tiểu đoàn 70 bắn khống chế không cho quân Mỹ còn sống sót chạy về Chu Lai.

Sau 30 phút chiến đấu, quân ta đã diệt gọn một đại đội Mỹ đóng trên Núi Thành, làm chủ toàn trận địa. Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” đã tung bay trên đỉnh đồi 50 của cứ điểm Núi Thành.

Chiến thắng trận Núi Thành là một tất yếu trong cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta với bọn xâm lược. Nó được hun đúc từ lòng yêu nước, ý chí quả cảm và sự sáng tạo vô bờ bến của toàn Ðảng, toàn dân ta. Mặc dù ở trận Núi Thành, ta chỉ tiêu diệt gọn một đại đội Mỹ nhưng là trận đánh Mỹ đầu tiên cho nên có ý nghĩa rất lớn.

Ðiều đó cho thấy rằng, dù bọn xâm lược từ đâu đến, dù tiềm lực mạnh đến mức nào hoặc dù chúng chiếm cứ ở địa danh này hay địa danh khác trên mảnh đất Việt Nam anh hùng thì chúng cũng sẽ bị thất bại thảm hại. Trận đánh phủ đầu thành công diễn ra ở Núi Thành là một minh chứng cụ thể. Không lâu sau đó, trong Ðại hội liên hoan Anh hùng và Chiến sĩ thi đua lần thứ nhất, quân và dân Quảng Nam đã vinh dự được Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam tặng tám chữ vàng “Trung dũng, kiên cường, đi đầu diệt Mỹ.

Theo ĐỒNG HƯƠNG NÚI THÀNH