Miền Nam Việt Nam đã được giải phóng khỏi những gì?
Một thuộc địa kiểu mới, một xã hội thực dân mới thì đương nhiên cần phải được giải phóng khỏi tay giặc xâm lược bằng một cuộc kháng chiến chống xâm lược để giải phóng dân tộc, giành lại chính quyền, giành lại quyền hành từ tay giặc xâm lược.
Nhưng bản thân xã hội trong vùng tạm chiếm ở miền Nam Việt Nam còn có những căn bệnh bất trị, đưa đến nhu cầu chính đáng cần phải được giải phóng.
Xã hội trong những đô thị bị tạm chiếm, về văn hóa thì méo mó, thác loạn, Tây hóa, Mỹ hóa. Đời sống tinh thần lệch lạc, đạo đức băng hoại, những phụ nữ ăn mặc hở hang đứng đường chào mời lính Mỹ là những hình ảnh thường thấy trên đường phố Sài Gòn, nhất là về đêm. Thường xuyên có những cô gái trẻ nhảy sông tự tử vì tình và vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Báo chí tư nhân rẻ tiền trần trụi và công khai xúc phạm phẩm giá những nhân vật công chúng để câu khách. Truyện khiêu dâm được xuất bản bán công khai đầy ở các nhà sách.
Ngoài các nạn nhân bị thương vong, dị tật, di chứng từ cuộc chiến, nạn nhân chất độc hóa học, người Mỹ còn để lại một nền kinh tế tê liệt, trên 3 triệu người thất nghiệp, gần 1 triệu trẻ mồ côi, khoảng 600 ngàn gái mại dâm, trên 1 triệu bệnh nhân nghiện ngập ma túy.
Đó là hậu quả của một thời kỳ ngoại thuộc lâu dài và buôn lậu ma túy gần 20 năm từ Diệm – Nhu và Trần Lệ Xuân cho đến Thiệu – Kỳ và Nguyễn Thị Lý, cũng như gia đình của họ. Trong nhiều phim tài liệu trong và ngoài nước, có thể thấy được ma túy được bày bán công khai ngoài chợ giữa ban ngày, nhất là ở Chợ Lớn.
Buôn lậu ma túy
Tiến sĩ ngành sử học Đông Nam Á Alfred W. McCoy là một sử gia có tên tuổi, ông viết cùng tác giả Cathleen B. Read trong sách The Politics of Heroin in Southeast Asia (Nền chính trị ma túy ở Đông Nam Á), do Harper & Row xuất bản năm 1972, về tình trạng buôn lậu ma túy và sự giao dịch giữa bọn tội phạm hình sự, bọn mafia quốc tế ở Đông Nam Á, đã tóm lược như sau:
Ngô Đình Nhu đã quyết định tái lập việc buôn bán ma túy để lấy tiền. Dù đa phần các tiệm hút ở Sài Gòn đã đóng cửa 3 năm rồi, hàng ngàn con nghiện người Việt và người Hoa vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những người cầm đầu của các tổ chức xã hội đen, Hội Tam Hoàng của người Hồng Kông ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối ma túy nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút ma túy này đã hoạt động trở lại, và 5 năm sau, tuần báo Time đã ước lượng ở Chợ Lớn có đến khoảng 2.500 cơ sở hút ma túy hoạt động công khai.
Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê các phi cơ nhỏ của Hàng không Lào, giao cho trùm tội phạm quốc tế Bonaventure “Rock” Francisci phụ trách. Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo trung tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sài Gòn, mối quan hệ mờ ám giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất hợp pháp này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sài Gòn, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ vận chuyển món hàng này về miền Nam Việt Nam hàng ngày.
Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn phái nhân viên tình báo dưới quyền bác sĩ Trần Kim Tuyến đến Lào với nhiệm vụ là vận chuyển thuốc phiện sống về Sài Gòn bằng phi cơ quân sự của không quân Sài Gòn. Tuy nhiên, nhiều người trong nội bộ cho rằng bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng trá hình “Sở Nghiên cứu Chính trị – Xã hội”, do CIA tài trợ, mới thật sự là nhân vật chủ chốt của kế hoạch làm ăn bất chính này.
CIA là một ông “trùm ma túy”. CIA từng giao dịch ma túy với Trung Hoa Quốc Dân Đảng ở Trung Quốc, và giúp máy bay cho Tưởng Giới Thạch vận chuyển và giao dịch thuốc phiện ở Miến Điện và Thái Lan. Trong chiến tranh Afghanistan lần thứ nhất (1979-1989), CIA đã giúp lãnh tụ Hồi giáo Gulbuddin Hekmatyar, một người chống Liên Xô, vận chuyển và giao dịch ma túy.
Ngày 13/4/1989, bản báo cáo của Hội đồng Kerry, do Thượng nghị sĩ John Kerry (từng là ứng cử viên Tổng thống, hiện là Bộ trưởng ngoại giao), đã kết luận rằng CIA đã dùng nguồn thu nhập từ ma túy để chi tiêu cho lực lượng đặc nhiệm Contra.
Nhà ngoại giao người Canada, Gs. Peter Dale Scott cho biết Guadalajara Cartel là đường dây buôn lậu ma túy mạnh nhất đầu thập niên 1980, chúng hoạt động thoải mái phần lớn nhờ sự bảo kê của cơ quan DFS, là một cơ quan ngoại vi của CIA do Miguel Nazar Haro phụ trách.
Vicente Zambada Niebla, con trai của Ismael Zambada García, là một trong những tay trùm ma túy lớn nhất ở Mexico, sau khi bị bắt đã khai với các luật sư của hắn rằng hắn và các cộng sự được các nhân viên người Mỹ cung cấp “giấy phép” đặc biệt để vận chuyển ma túy qua lại biên giới hai nước, để đổi lấy các tin tức tình báo nội bộ về cuộc chiến ma túy quy mô lớn đang diễn ra ở Mexico.
Ngoài ra CIA còn nhúng tay vào việc giúp đỡ giao dịch hoặc trực tiếp giao dịch ma túy ở Panama sau khi gần 3 vạn quân Mỹ tấn công nước này vào năm 1989. CIA còn từng có một thời gian dài dùng ma túy chiêu dụ lực lượng Vệ binh Quốc gia Venezuela để đổi lấy các thông tin tình báo. Việc này đến năm 1996 mới được đưa ra công luận.
Hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee trong sách The Deaths of the Cold War Kings: The Assassinations of Diem and JFK (Cái chết của những ông vua Chiến tranh lạnh: Vụ ám sát Diệm và John F. Kennedy), do Cemetery Dance xuất bản năm 1999, đã cho biết như sau:
Năm 1958, khi Diệm-Nhu tái lập hệ thống lưu thông thuốc phiện về Sài Gòn, Bonaventure Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về miền Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng.
Sau đó, Francisci dự tính sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng chục ngàn bệnh nhân nghiện ma túy ở Sài Gòn. Trong khi việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới, đặc biệt là Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, ngày càng phức tạp và khó khăn. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phần ma túy của ông ta.
Sau đó Francisci và Nhu đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sài Gòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sài Gòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana.
Về căn bản, các tập đoàn buôn lậu ma túy, mafia Mỹ, và ngụy quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành các đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Tiền tỷ chảy vào túi các bên liên quan.
Trong bài phê bình “Một Bí Ẩn Cần Tiết Lộ Trong Chuyện Bức Tử Miền Nam Năm 1975” của tác giả Trần Viết Đại Hưng, một cựu sĩ quan ngụy, bạn thân của tướng ngụy Nguyễn Chánh Thi, đã phê phán gay gắt:
“Trong thời Chiến tranh Việt Nam, báo chí Mỹ phanh phui là Thiệu cùng với đàn em là Trung tướng Đặng văn Quang, đã buôn bán Bạch phiến làm giàu. Thứ trùm ma túy như Thiệu thì làm gì mà có chuyện yêu nước thương dân. Gặp thời loạn lạc, làm cai thầu chống Cộng, Thiệu chỉ có một việc duy nhất là vơ vét cho đầy túi tham mà thôi. Đến khi quốc gia hưng vong thì lòi ngay ra bản chất ti tiện hèn nhát, đúng là có ‘cháy nhà mới lòi mặt chuột’ Nguyễn văn Thiệu.
Phó tổng thống Nguyễn cao Kỳ cũng chẳng có gì khá hơn, trong cuốn hồi ký ” Việt Nam máu lửa quê hương tôi”, cựu thiếu tướng Đỗ Mậu đã chỉ ra rằng ông Kỳ và bà chị ruột là Nguyễn thị Lý đã buôn lậu thuốc phiện từ Lào về bán. Đúng là hai gương mặt cai thầu chống Cộng do Mỹ dựng lên là Nguyễn văn Thiệu và Nguyễn cao Kỳ chẵng có tay nào sáng sủa, toàn là thứ buôn lậu ma túy. Phải đợi tới những ngày cuối tháng 4/1975 mới thấy rõ tư cách hèn kém của hai tay này. Bỏ quân leo phi cơ mà chạy không một chút liêm sỉ và danh dự của người lãnh đạo.”
Lối sống đồi trụy, thác loạn
Ngoài sự tê liệt vì tệ nạn buôn lậu ma túy, xã hội trong những vùng tạm chiếm còn bị tê liệt bởi lối sống sa đọa và đồi trụy. Khoảng 7 triệu lượt người Mỹ và cao điểm gần 60 vạn quân viễn chinh Mỹ ở trong vùng tạm chiếm, đã tạo ra các nhu cầu và văn hóa tiêu dùng mới.
Để “giúp vui” cho quân Mỹ, Mỹ-Thiệu cho mở cửa hàng loạt phòng tắm hơi, hộp đêm, nhất là ổ mại dâm, nhan nhản khắp Sài Gòn, đặc biệt là xung quanh các cư xá của người Mỹ. Thị trường mại dâm ở Sài Gòn trước năm 1975 được người dân quen miệng gọi là “chợ heo”, được Mỹ-Thiệu công khai hóa và hợp pháp hóa. Năm 1966, sau khi từ Sài Gòn về Mỹ, thượng nghị sĩ William Fulbright nhận xét: “Mỹ đã biến Sài Gòn thành một ổ mại dâm”.
Lối sống đồi trụy, thác loạn, không chỉ là hậu quả của sự có mặt của hàng chục vạn lính viễn chinh nước ngoài trong túi nhiều đô la Mỹ, mà theo một số người, nó còn nằm trong chủ trương ngầm nhằm đồi trụy hóa thanh niên miền Nam, làm cho giới trẻ quên đi hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược, không màng tới nghĩa vụ đối với giống nòi.
Từ đó xuất hiện ở Sài Gòn một dòng văn học khiêu dâm trong đó các tác giả chuyên khai thác thị hiếu thấp hèn của người đọc, đề cao “phần con” hơn “phần người”, công khai cổ vũ cho những lối sống bệnh hoạn, biến thái.
Bên cạnh những “phim con heo” (các danh từ “chợ heo”, “phim heo” này đều có nguồn gốc từ đây) bán công khai ngoài phố, báo chuyên in hình phụ nữ khỏa thân (Playboy, Penthouse, Nude….) bày bán công khai trên vỉa hè các đường Lê Lợi, Công Lý…. ở ngay trung tâm thành phố, là những tiểu thuyết “người lớn” của những “chuyên gia” viết truyện khiêu dâm như Chu Tử, Lê Xuyên, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thụy Vũ….
Những vấn đề nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong đời sống văn hóa – tinh thần của người dân. Sự sa đọa, trụy lạc trong xã hội đã gây ra nhiều thảm cảnh gia đình và hạnh phúc đổ vỡ, nhiều câu chuyện bi đát thương tâm. Qua các báo hằng ngày, không ngày nào là không có những vụ án mạng vì tình, những vụ tự tử, nhảy lầu, nhảy sông, đâm chém, bắn giết lẫn nhau vì giành nhau một người đẹp, kể cả trong quân đội ở các chức vị cao nhất, một ví dụ là “phó tổng thống” Nguyễn Cao Kỳ thời đó, do “nổi tiếng” với thái độ ngang ngược chĩa súng cướp bồ nhí của đàn em nên bị mọi người gọi là “Kỳ Cao Bồi”.
Tiến sĩ James Carter, giáo sư sử học tại Đại học Drew (Mỹ), trong sách Inventing Vietnam: The United States and State Building, 1954-1968, do NXB Đại học Cambridge (Anh) phát hành năm 2008, đã cho biết: “Chiến tranh cũng làm 100.000 thường dân thương vong mỗi năm. Dịch bệnh tăng vọt; dịch tả tăng từ hàng trăm lên đến 20.000 vụ. Khoảng từ 30.000 đến 50.000 người cụt chân tay chờ được lắp chân giả. Và chính phủ Sài Gòn chỉ dành chưa đầy 1% ngân sách cho dịch vụ y tế.”
Có lẽ từ những hiện thực trên mà sử gia Stanley I. Kutler trong Encyclopedia of The Vietnam War (Bách khoa thư Chiến tranh Việt Nam) do Simon & Schuster McMillan xuất bản năm 1996, đây là cuốn sách viết theo quan điểm và tuyên truyền chính thức và công khai của chính phủ Mỹ, đã phải viết về xã hội ở các đô thị miền Nam dưới thời Nixon như sau:
“Đối với hầu hết người dân trong các thành phố, đời sống càng ngày càng trở nên khó khăn. Vào năm 1972, có vào khoảng 800 ngàn trẻ em mồ côi lang thang trên các vỉa hè trong các đường phố ở Sài Gòn và một số thành phố khác, sống bằng nghề ăn mày, đánh giày, rửa xe, móc túi và dẫn khách làng chơi về cho chính chị gái và mẹ của chúng. Có vào khoảng 500 ngàn gái mại dâm và gái bán ba, trong đó có nhiều người là bà vợ của anh em quân nhân trong quân đội Nam Việt Nam. Họ phải làm cái việc ô nhục này để phụ cấp đồng lương chết đói của ông chồng không đủ nuôi cho một người. Ngoài ra, lại còn có khoảng 2 đến 3 triệu người, trong đó có những người già cả hay thương phế binh của quân đội Nam Việt Nam không thể nào tìm được công ăn việc làm. Vào năm 1974, tình trạng đói đã lan rộng ra nhiều nơi ở miền Nam. Theo cuộc thăm dò của anh em sinh viên Ca-tô thì ngay trong khu vực giàu có nhất trong thành phố Sàigòn, chỉ có 1/5 tổng số gia đình có đủ ăn, một nửa tổng số gia đình cho là có thể lo được mỗi ngày một bữa cơm và một bữa cháo bằng thứ gạo rẻ tiền nhất. Các gia đình còn lại đều đói. Đói và thất nghiệp đưa đến tội ác, tự tử và biểu tình trong khắp các vùng do chính quyền Nam Việt Nam quản lý.”
Theo Thiếu Long Texas